Một sự thể nghiệm phân tâm học Freud trong văn học Việt Nam (*)

17:14 30/09/2008
TRẦN THỊ THANH NHỊ “Tôi bị thôi thúc bởi một thứ khao khát hiểu biết có liên quan đến những quan hệ giữa người với người hơn là với các đối tượng tự nhiên.”(Sigmun Freud)


Học thuyết S.Freud ra đời ở châu Âu cuối thế kỉ 19 được xem là bước ngoặt của thế kỉ trong việc khám phá con người. S.Freud đã cung cấp cho nhân loại một công trình tuyệt vời để hiểu đến chỗ thẳm sâu nhất của tâm hồn nhân loại. Lý thuyết của ông đã đề cập đến vấn đề nhạy cảm nhất của tâm hồn nhân loại và bị lẩn tránh nhắc đến nhất lúc bấy giờ là vấn đề tình dục. Có thể xem Freud là một trong những người tiên phong căng buồm đến khám phá đại dương mờ tối, bí ẩn của vô thức. Với vai trò như sợi dây Adrian , Freud đã dò tìm ra con đường khám phá thế giới bên trong chưa từng biết tới của con người. Công lao của ông không chỉ dừng lại ở việc khám phá chinh phục mà ông đã soi sáng thế giới ấy để cả nhân loại được biết. Ánh sáng diệu kì ấy phát ra từ trí tuệ tuyệt vời và đã để lại các công trình danh tiếng như: Những nghiên cứu về Hysteri (1885), Nghiên cứu về chứng loạn thần kinh (1885), Ba tiểu luận về tình dục (1905), Dẫn luận phân tâm học (1910), Vật tổ và cấm kỵ (1913), Nguyên tắc thực tiễn và nguyên tắc khoái lạc (1920), Những bài giảng mới về phân tâm học (1932)...

Trong các công trình của mình, Freud đã đề cập đến những vấn đề quan trọng làm thế giới kinh ngạc: Sự hiện hữu của một tâm linh vô thức, sự can thiệp của vô thức vào đời sống ý thức. Tâm linh ý thức của chúng ta có thể tạo nên nhiều lý lẽ rất hợp lý nhưng giả tạo và bịa đặt. Ông chia kết cấu con người ra làm ba hệ thống: hệ thống ý thức, hệ thống tiền ý thức, hệ thống vô thức. Ông đi sâu vào tìm hiểu về vô thức con người từ đó lý giải căn nguyên bệnh tâm thần. Ông cũng tìm hiểu và lí giải nhiều về giấc mơ. Giấc mơ là sự trung gian giữa cuộc sống của những tình cảm được che giấu và cuộc sống được đem đặt dưới sự chi phối của lý trí chúng ta. Nhờ đó chúng ta có thể học được nhiều điều mà khi thức chúng ta từ chối không muốn biết. Không một giấc mơ nào hoàn toàn phi lý, mỗi giấc mơ với tính cách là một hành vi tâm linh trọn vẹn, có ý nghĩa chính xác. Mọi giấc mơ tiết lộ ý muốn thân tình nhất vì vậy giấc mơ là các van tình cảm giúp giải phóng tình cảm của chúng ta khỏi những ám ảnh, phiền muộn bị nhốt cả ngày. Theo Freud, Tính dục (Libido) điều khiển vô thức theo một cơ chế nhất định. Thứ nhất là nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tại. Nguyên tắc khoái lạc là chỉ những hành động nhằm giảm bớt những căng thẳng đau đớn của cơ thể và đem đến những khoái lạc nhưng quy phạm xã hội buộc con người từ bỏ và thay vào đó là những quy phạm tập thể (Nguyên tắc thực tại). Thứ hai là: Bản năng sống và bản năng chết. Nguyên nhân xuất hiện của những bản năng này là do con người phải duy trì giữa ham muốn cá nhân và thực tế cuộc sống. Một trong những điểm chính của lý thuyết Freud nêu ra là sự lý giải về sự xung đột của Cái Ấy (Id), Cái Tôi (Eg) và Siêu tôi (Superego), giữa các xung năng và các lực dồn nén. Sự hình thành, phát triển tạo ra sự cân bằng giữa ba yếu tố cũng là giai đoạn phát triển nhân cách (Theo Freud là bốn giai đoạn: Giai đoạn miệng, giai đoạn hậu môn, giai đoạn âm và giai đoạn dương vật, giai đoạn dậy thì). Đóng góp của Freud thể hiện trên nhiều phương diện: y học, tâm lý học, triết học, xã hội học, văn học nghệ thuật.

Ở Việt , có nhiều tác giả giới thiệu chủ nghĩa Freud cũng như vận dụng vào phê bình sáng tác. Các tác giả và các công trình tiêu biểu như Nguyễn Hảo Hải (Người đàn ông có nhiều ảnh hưởng đến văn chương: Sigmun Freud), Phạm Minh Lăng (Sigmun và Phân tâm học),Nguyễn Ngọc Bích (Tâm lí học nhân cách), đặc biệt là Đỗ Lai Thúy với các công trình biên soạn: Phân tâm học và văn hóa tâm linh, Phân tâm học và văn hóa  nghệ thuật, Phân tâm học và tình yêu. Góp phần và khẳng định vị thế của mình vào dòng chảy này là nhà nữ nghiên cứu trẻ TRẦN THANH HÀ với công trình Học thuyết S.Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt .

Phân tâm học là lý thuyết khổng lồ của một người khổng lồ thế kỉ 19, dung lượng 139/348 trang của cuốn sách này quả là nhỏ bé. Tuy vậy, Trần Thanh Hà đã tỏ ra là một người biết thẩm định và chọn tinh những vấn đề cốt lõi nhất để giới thiệu cùng bạn đọc. Chẳng hạn: Sự ra đời và phát triển của phân tâm học, vô thức, giấc mơ, nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tại, bản năng sống và bản năng chết, tính dục, những vấn đề đời sống văn học liên quan đến tính dục bộc lộ qua tôn giáo, đạo đức, văn minh, văn học nghệ thuật. Vì thế nó đáp ứng nhu cầu cho những người bước đầu tìm hiểu phân tâm học cũng như có cái nhìn tổng quát về nó.

Phần thứ hai, tác giả chứng minh sự thể hiện của học thuyết này trong văn học Việt . Có thể nói, ở Việt chưa có công trình nào lớn, đáp ứng một lúc hai yêu cầu là tầm rộng và độ sâu để thể hiện ảnh hưởng của chủ nghĩa Freud vào văn học Việt . Sự căng thẳng và áp lực chắc hẳn đã đè nặng lên đôi vai nhà nữ nghiên cứu trẻ. Nhưng, như Stephan Zweig đã viết về Nietzsche: “Cái búa càng nện mạnh xuống ông thì cái khối đồng thau của ý chí ông càng vang vọng trong suốt hơn”, sự căng thẳng, áp lực, khó khăn không hề làm người viết lùi bước mà càng tăng thêm một ý chí, lòng nhiệt tâm cho sự ra đời của một công trình đáp ứng tính thời sự này. Thành công của quyển sách không thể không công nhận, Trần Thanh Hà đã dày công cố gắng chứng minh sự thể hiện của học thuyết Freud vào văn học Việt ở nhiều khía cạnh. Bên trong mỗi luận điểm lớn ấy là một hệ thống mạng lưới các luận điểm nhỏ hơn giăng mắc tạo thành một kết cấu mạng lưới chặt chẽ, khoa học. Mỗi luận điểm riêng nhưng hòa bện, đan kết vào nhau, nâng đỡ làm khai sáng lẫn nhau. Trần Thanh Hà tỏ ra là một nhà khai quặng triệt để, chịu khó, không chỉ thỏa mãn với những kết quả ban đầu tìm kiếm được. Sức dẻo dai, tinh tế của một người phụ nữ; ý chí của một người đàn ông; sự sắc sảo, tài hoa của một nhà nghiên cứu đã đẩy những phát hiện của chị đến tầm sâu cốt lõi của vấn đề. Nếu Freud dò đến đáy sâu tâm hồn nhân loại thì Trần Thanh Hà cũng dò tìm đến những điểm sâu nhất biểu hiện của nó trong văn học Việt . Vì thế, giấc mơ không chỉ dừng lại ở “chức năng điềm báo, màu sắc tôn giáo, bộc lộ niềm tin tín ngưỡng, gửi gắm khát vọng công bằng hạnh phúc của người lao động” (tr248) mà là những giấc mơ tình dục, giấc mơ ám ảnh, giấc mơ khát vọng. Qua cái nhìn sắc nhọn của Trần Thanh Hà cách xử lí tính dục của các nhà văn hiện lên chính xác: “Với Phạm Thị Hoài khi phản ánh con người bản năng xuất hiện trong xã hội đương thời thì bản năng mà chị muốn nói đến bao gồm “mọi lạc thú ăn ngủ đụ ị ở đời” (Mari sến - Phạm Thị Hoài)... Tạ Duy Anh xoay quanh một vấn đề tình dục, bóc trần sức mạnh cũng như sự hủy diệt của nó mà lý thuyết Freud đã đề cập đến. Nhà văn đã diễn tả nhiều nhân vật với đời sống tình dục khác nhau: bình thường như sự kích động và thỏa mãn tình dục... Riêng Hồ Anh Thái viết về lối sống bản năng với mục đích săn tìm cực khoái ở những nhân vật đầy thú tính” (tr 244). Freud đề cập đến việc khi có sự mâu thuẫn giữa nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tiễn là: Khi có ẩn ức dồn nén, con người sẽ tìm cách thỏa mãn, hoặc những ẩn ức đó không được thỏa mãn sẽ làm người bị mắc tâm thần, và một hình thức giải tỏa khác là sáng tạo nghệ thuật. Lý thuyết này được Trần Thanh Hà thể hiện sáng rõ qua ba tác phẩm: Người đàn bà trên đảo, Tấm ván phóng dao, Thân phận tình yêu.

Với người làm khoa học, nhất là lý luận phê bình nói chung và lý luận phê bình văn học nói riêng thì một trong những điều kiện cần thiết là phải tìm cho mình một giọng văn, lối văn phong khoa học chuẩn xác, rành mạch. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đạt đến đỉnh cao. Văn phê bình, lý luận cũng phải đạt đến tính nghệ thuật, giàu chất thơ. Vừa khoa học rành mạch, vừa nghệ thuật, vừa triết lý, vừa ý vị thấm đẫm chất thơ như là hai luồng sợi dọc và ngang dệt nên tấm thảm Học thuyết Freud và sự thể hiện của nó trong Việt . Có thể thấy những điều trên qua các dẫn chứng sau: “Tình yêu mạo hiểm biến thành một trò chơi thích thú, biến thành đam mê không gì cưỡng lại được. Đó giống như sự lựa chọn hưng phấn trong một trò chơi thích thú khi cuộc sống không mang đến cho họ những điều gì có ý nghĩa.” (tr 186); “Những con người cô đơn trên mỏm núi cao của dục vọng đã tự thả trôi mình cho xúc cảm khoái lạc bởi “Tình dục vô thức quyết định mọi tình yêu”. Bởi vậy, ở thời đại ngày nay mà yêu một cái lý tưởng, hà tiện, cứ trung thành thì cũng coi như “Trồng cây si một chỗ” (tr 176); “Nỗi đau làm người không phải từ lúc được sinh ra mà từ lúc con người biết ý thức và có ý chí. Biết phân biệt thiện ác nỗi đau mới nảy sinh. Nỗi đau trở thành cần thiết không? Nếu trong một xã hội xuất hiện nhiều cái ác thì nỗi đau thật đáng quý. Nỗi đau không phải ta sinh ra ngoài ý muốn mà là nỗi đau đã sống không được như ý muốn. Tất nhiên có những ý muốn cao đẹp, những ý muốn xấu xa và từ đó cũng nảy sinh những nỗi đau đáng trân trọng và những nỗi đau thường tình” (tr 224) v.v.

Công trình của Trần Thanh Hà ra đời đáp ứng yêu cầu thời sự. Tuy nhiên,
đây chưa phải là công trình hoàn toàn làm thỏa mãn nhu cầu của độc giả. Trong dòng chảy thơ văn từ dân gian đến nay, Trần Thanh Hà chỉ lướt qua các giai đoạn và thể loại để rồi lẩy ra văn xuôi hiện đại. Làm như vậy, vừa là chỗ thành công, sự khôn ngoan của người viết sách (biết chọn điểm sáng, tập trung), nhưng phần nào làm công trình này hạn chế. Khuyết thiếu ở đây là tầm rộng. Ở phần này, tác giả chủ yếu thể hiện học thuyết Freud vào văn học Việt qua các luận điểm về tính dục, vô thức, giấc mơ, nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tế. Với sự nhạy cảm, tri thức sâu rộng, tài năng văn học đã giúp tác giả có nhiều kiến giải hấp dẫn, lý thú. Tuy nhiên, ở một số phần, tác giả hơi tham đi quá nhiều vào Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, gây ra cảm giác hơi hụt cho những phần khác.

Phần nghệ thuật có thể được xem là phần thành công của tác giả. Tuy dung lượng ít nhưng thể hiện bản lĩnh khái quát vấn đề của tác giả. Trần Thanh Hà đã giúp chúng ta thấy được sự cách tân nghệ thuật qua: quan niệm nghệ thuật về con người, không thời gian, kết cấu...
Một cuốn sách mang biết bao tâm huyết của một con người, song không thể tránh khỏi khuyết thiếu. Mặc dù vậy, phải khẳng định là sức mạnh tác phẩm sẽ tự bộc lộ khi chúng ta khám phá. Công trình cho thấy sự nhiệt thành, tâm huyết của tác giả, là một tài liệu có giá trị thời sự và văn học, một cuốn sách nên đọc và nên có.  
T.T.T.N

(nguồn: TCSH số 235 - 9 - 2008)

 


..................
(*) Trần Thanh Hà, Học thuyết S.Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt , Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN ÁI NHÂNThật ra, những điều mà nhà văn, Đại tá Tôn Ái Nhân nêu ra dưới đây không hoàn toàn mới so với “búa rìu dư luận” từng giáng xuống đầu các nhà văn đương đại. Và, bản thân chúng tôi cũng không hoàn toàn đồng tình với tất thảy những sự kiện (kể cả những vấn đề nhạy cảm) mà ông đã “diễn đạt” trong 14 trang bản thảo gửi tới Tòa soạn. Chính vì vậy, chúng tôi đã xin phép được cắt đi gần nửa dung lượng, để “THẤT TRẢM SỚ” NHÀ VĂN đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng hơn. Nhân đây cũng muốn gửi tới tác giả lời xin lỗi chân thành, nếu như lưỡi kéo của Sông Hương hơi “ngọt”.

  • NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.

  • NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).

  • HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.