Một số vấn đề về dạy và học tiếng Việt ở trường phổ thông

09:57 20/11/2021

VÕ XUÂN TRANG

Dạy tiếng Việt cho học sinh bản ngữ nên dạy cái gì? Câu hỏi này đặt ra tưởng như thừa lại hết sức cần thiết và cho đến nay các nhà ngôn ngữ học cũng như các nhà giáo dục học văn chưa trả lời được một cách rõ ràng và dứt khoát.

Ảnh: Internet

Vì vậy hậu quả mà học sinh phổ thông đặc biệt là học sinh cấp II gánh chịu là phải học một bộ sách giao khoa tiếng Việt hết sức nặng nề nhưng không mấy thiết thực, vì đó là một bộ giáo trình tiếng Việt ở bậc đại học được rút gọn và được thay thế bằng một hệ thống thuật ngữ có vẻ dễ hiểu hơn.. Cùng với bộ sách giáo khoa, học sinh còn bị "tra tấn" bởi một phương pháp dạy học theo một qui trình đơn điệu, máy móc và khô khan. Hiện nay, sách giáo khoa tiếng Việt, Bộ đã ban hành và đang là pháp lệnh. Do đó, vấn đề chúng ta cần bàn và nên bàn một cách thiết thực là dạy như thế nào trên cơ sở bộ sách giáo khoa tiếng Việt hiện có.

Trước khi bàn vấn đề dạy như thế nào đối với bộ sách giáo khoa tiếng Việt hiện có, cũng nên làm rõ một số vấn đề thuộc chương trình và sách giáo khoa.

1. Dạy tiếng Việt cho học sinh bản ngữ là dạy kiến thức về tiếng Việt hay dạy tiếng Việt với tư cách là một công cụ để giao tiếp và tư duy?

Theo chương trình qui định của Bộ, sách giáo khoa tiếng Việt vừa dạy kiến thức tiếng Việt vừa dạy kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh nhưng trong đó phần dạy kiến thức tiếng Việt vẫn là chủ yếu. Trong các nhiệm vụ của bộ môn tiếng Việt thì nhiệm vụ số một được Bộ qui định như sau: Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, tương đối hoàn chỉnh, có hệ thống về tiếng Việt, làm cơ sở cho việc trau dồi và phát triển năng lực ngôn ngữ cho học sinh... Thông qua các chức năng chủ yếu của ngôn ngữ, tiếp tục rèn luyện cho các em kỹ năng nghe, đọc, viết tiếng Việt văn hóa... (1) So sánh với nhiệm vụ và yêu cầu cơ bản của việc dạy - học tiếng Việt ở cấp II phổ thông do Bộ qui định trước cải cách giáo dục là: Phát trin ngôn ngữ và tư duy của học sinh, làm cho các em đọc, nói, viết đúng tiếng Việt, hiu được cách diễn đạt bng tiếng Việt ca người khác và có khả năng xem xét, suy nghĩ hợp lô-gích (2) thì chương trình và sách giáo khoa tiếng Việt cải cách giáo dục là một thụt lùi đáng tiếc. Sở dĩ có tình trạng nước đôi vừa dạy kiến thức vừa dạy kỹ năng sử dụng ở trường phổ thông đối với bộ môn tiếng Việt như đã nói ở trên, nguyên nhân chủ yếu là do chưa phân biệt rạch ròi đối với trường phổ thông thì tiếng Việt là môn học đối tượng như các môn học khác hay chỉ là môn học công cụ? Theo tôi cần phải khẳng định một cách dứt khoát rằng, đối với trường phổ thông thì tiếng Việt chỉ là môn học công cụ và không nên coi là môn học đối tượng. Những tri thức về tiếng Việt mà trường phổ thông cần cung cấp cho học sinh chỉ nên giới hạn ở một mức độ tối giản và phải bằng một con đường khác không giống như con đường hình thành tri thức của các môn học đối tượng. Tiếng Việt với tư cách là môn học công cụ thì những tri thức mà bộ môn này cung cấp cho học sinh phải bằng con đường chấp nhận và dần dần tự ý thức hóa trong quá trình học tập và rèn luyện. Để kết thúc những điều trình bày trên đây, tôi xin dẫn chứng thêm nhiệm vụ bộ môn tiếng Việt do Bộ qui định cho trường Cao đẳng sư phạm để có thể thấy rõ hơn sai lầm của chương trình và sách giáo khoa tiếng Việt phổ thông đã mắc phải. Chương trình môn tiếng Việt của trường Cao đẳng sư phạm diện rộng, với thời gian 310 tiết chưa kể 85 tiết tập làm văn, có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:

1. Cung cấp những kiến thức cơ bản, hiện đại và có hệ thống về ngôn ngữ học và tiếng Việt (về các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách).

2. Rèn luyện kỹ năng đọc, nói, kỹ năng vận dụng đúng và thành thạo các qui tắc dùng từ, đặt câu, bồi dưỡng khả năng tự rèn luyện kỹ năng thực hành tiếng Việt.

3. Thông qua việc cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng, giáo dục tinh thần tôn trọng và yêu quí tiếng Việt (3).

Ba nhiệm vụ này được qui thành hai nhiệm vụ của bộ môn tiếng Việt ở trường phổ thông, có khác chăng là ở trường Cao đẳng sư phạm có thêm phần kiến thức về ngôn ngữ học với tỷ lệ thời gian chiếm 1/5. Sự lầm lẫn nói trên là ngọn nguồn gây bao tai họa cho cả giáo viên và học sinh vì họ phải dạy và phải học một chương trình quá tải và thực sự không cần thiết lắm.

Do phải cung cấp những kiến thức mà chương trình và sách giáo khoa qui định nên đến lượt người dạy lại tiếp tục "hành hạ" học sinh bằng cách dắt dẫn học sinh đi lại chính con đường mà các nhà ngôn ngữ học đã đi. Từ việc quan sát, phân tích các hiện tượng ngôn ngữ cụ thể rồi khái quát rút ra các khái niệm, các qui luật... Để né tránh sai lầm này, trong chỉ đạo Bộ có hướng dẫn phải dành hơn một nửa thời gian của tiết học tiếng Việt cho việc luyện tập thực hành. Mặc dầu Bộ qui định như vậy, nhưng qua dự giờ, theo dõi nhiều giáo viên dạy, chúng tôi thấy trên thực tế phần lớn giáo viên đều loay hoay với việc truyền thụ kiến thức, hình thành khái niệm nên không còn bao nhiêu thời gian để luyện tập thực hành. Còn luyện tập và thực hành như thế nào cũng là những vấn đề đáng phải bàn. Với cấu tạo bài học của sách giáo khoa hiện nay thì phần luyện tập, thực hành chủ yếu là để củng cố các tri thức về tiếng Việt đã được cung cấp ở phần lý thuyết. Đó là thực trạng đáng buồn hiện nay của bộ môn tiếng Việt ở trường phổ thông từ khâu chương trình đến sách giáo khoa và cả cách giảng dạy ở trên lớp.

2. Dạy tiếng Việt với tư cách là một công cụ giao tiếp thì nên dạy cái gì?

Đóng góp quan trọng nhất của Xô-Xuya là tách hoạt động ngôn ngữ ra làm hai mặt: mặt xã hội và mặt cá nhân. Tương ứng với mặt xã hội là ngôn ng, còn tương ứng với mặt cá nhân của hoạt động ngôn ngữ là lời nói. Theo Xô-Xuya, ngôn ngữ là cn thiết để cho lời nói có th hiểu được và gây được tất cả những hiệu qu của nó; nhưng lời nói lại cn thiết để cho ngôn ngữ được xác lập; và v phương diện lịch sử, sự kiện lời nói bao giờ cũng đi trước (4).

Cũng có thể hình dung ngôn ngữ là cái khái quát, cái trừu tượng, vì nó là sản phẩm của toàn xã hội, còn lời nói là cái cụ thể, cái sinh động vì nó là sản phẩm của từng cá nhân. Theo Xô-Xuya thì ngôn ngữ tồn tại dưới dạng tim năng trong mi bộ óc hay nói đúng hơn, trong các bộ óc ca một tập thể, vì ngôn ngữ không có mặt đầy đủ trong một người nào, nó ch tn tại một cách vẹn toàn trong quần chúng (5). Ngôn ngữ được hình thành dần dần ở đứa trẻ thông qua quá trình tập dượt và tiếp thu, rồi được định hình trong bộ óc. Từ những nhận thức trên đây, chúng tôi cho rằng: đối với học sinh phổ thông thì bộ môn tiếng Việt không nên đi sâu vào những cái khái quát, trừu tượng của ngôn ngữ mà nên dành nhiều thời gian để cung cấp cho học sinh những cái cụ thể, sinh động của lời nói. Dạy theo sách giáo khoa cải cách về cơ bản là dạy ngôn ngữ vì trong đó phần lớn là dạy các khái niệm của ngôn ngữ học nói chung chứ không riêng gì tiếng Việt, như: danh từ, đại từ, số từ,... Nếu nói bằng hình ảnh thì dạy như vậy là dạy cái màu xám của tiếng Việt. Chính lời nói là cái xanh tươi phong phú sinh động của tiếng Việt mà nhà trường cần cung cấp cho học sinh, vì đó là cái mà học sinh cần mà đang thiếu. Tóm lại, đối với học sinh, đặc biệt là học sinh cấp I, cấp II thì dạy tiếng Việt không nên dạy lý thuyết (tức là không nên dạy ngôn ngữ, mà chỉ nên dạy cây đời (tức là dạy lời nói)). Cũng cần nói thêm rằng, giữa ngôn ngữ và lời nói có một sự gắn bó và lệ thuộc lẫn nhau hình như khó lòng tách ra được. Nhưng về điểm này, Xô-Xuya cũng đã khẳng định: Ngôn ngữ vừa là công cụ vừa là sản phẩm ca lời nói. Nhưng mặc du có những mi liên hệ đó, ngôn ngữ và lời nói vẫn là hai sự vật hoàn toàn tách biệt nhau.

Với kết cấu bài học gồm ba phần như trong sách giáo khoa, nên khi dạy tiếng Việt giáo viên thường dắt dẫn học sinh đi theo con đường qui nạp để hình thành các khái niệm, qui tắc và cuối cùng là luyện tập để củng cố các tri thức đã học được. Con đường đó chỉ có thể áp dụng khi tiếng Việt trở thành một môn học đối tượng như các môn toán, lý, hóa... Còn theo quan niệm của chúng tôi, ở trường phổ thông, tiếng Việt chỉ là một môn học công cụ thì phải thiết kế lại bài giảng và dạy theo một cách khác. Để minh họa cho những điều trình bày trên, tôi xin lấy một bài dạy cụ thể. Bài chúng tôi chọn là một bài khô khan nhất trong các bài khô khan có trong sách giáo khoa. Đó là bài S từ.

Với kết cấu bài học trong sách giáo khoa tiếng Việt, lớp 6, tập 2 thì giáo viên phải từ những ngữ liệu có sẵn rồi dắt dẫn học sinh hiểu thế nào là số từ chỉ số lượng và thế nào là số từ chỉ thứ tự và số hiệu. Ý nghĩa và hoạt động ngữ pháp của hai loại số từ. Và cuối cùng là làm một số bài tập để ghi nhớ những điều đã học về số từ. Đứng về mặt lời nói mà xét, người Việt có những cách dùng số từ riêng và cách dùng số từ của người Việt qua ca dao, tục ngữ, thành ngữ và lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân ta phong phú vô cùng. Dạy số từ tiếng Việt mà không cung cấp cho học sinh biết sự phong phú trong cách dùng số từ của người Việt là một thiếu sót lớn.

Vì vậy, khi dạy bài này tôi không đi theo con đường đó. Mở đầu có thể thông qua một cuộc đàm thoại ngắn, tôi cho học sinh biết ngay hai loại số từ trong tiếng Việt. Sau đó tôi dành một số thời gian thích đáng để kiểm tra xem vốn liếng về cách dùng số từ của học sinh. Kết quả với học sinh lớp 6, vốn liếng của các em về cách dùng từ còn rất hạn chế. Các em cũng chỉ có thể nêu được một số câu tục ngữ, thành ngữ và một vài cách nói quen thuộc có dùng số từ. Khi các em đã cạn vốn, tôi bắt đầu cho các em biết những cách dùng số từ rất độc đáo, rất lạ của nhân dân ta, qua kho tàng ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ, câu đố văn thơ... mà các em chưa biết hoặc có biết nhưng không nhớ vì chỉ mới nghe một vài lần. Và thế là chỉ trong 30 phút vốn liếng sử dụng số từ xưa đến nay qua bao thế hệ đã hiện ra mồn một trước mắt và trong đầu các em.

Thời gian còn lại tôi lần lượt chỉ ra những cái tinh tế, phong phú và cả những sự biến hóa trong cách dùng số từ của tiếng Việt. Chẳng hạn, nghĩa xác định và không xác định của số từ tiếng Việt, đặc biệt là nghĩa không xác định như: Một mất mười ngờ, Mười voi không được bát nước xáo, Một trăm con gái rửa chân cu này. Trăm năm trong cõi người ta, Dẫu xa nhau ba vạn chín ngàn ngày không xa,...; những cách dùng số từ rất đặc biệt, có vẻ như bất thường: Ba chân bn cẳng, Một chân bước ra ba chân bước lại, Mồm năm miệng mười,...; sự phong phú trong việc vừa dùng số từ thuần Việt vừa dùng số từ Hán Việt như: Một, hai, ba, bn, nhất, nhì, ba, tư... Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua... Những sự biến âm trong khi dùng số từ, cùng một số từ nhưng trong những kết hợp khác nhau lại có những cách biến âm khác nhau như: mười và mươi (mười ba / ba mươi), mộtmốt (mười một / hai mươi mốt), năm, lăm nhăm, (một trăm linh năm, mười lăm, hai mươi lăm / nhăm...) Vì thời gian có hạn nên chỉ mách bảo cho học sinh được đôi điều như vậy. Qua theo dõi chúng tôi thấy học sinh không những hứng thú học tập mà còn tỏ ra tiếc rẻ, thòm thèm vì thời gian quá ít. Và cũng nên cho học sinh thòm thèm để các em tìm tòi và sáng tạo thêm. Với dạng bài cung cấp khái niệm chúng tôi đều dạy theo cách đó.

Dạy tiếng Việt theo quan niệm và phương pháp như chúng tôi trình bày là dạy cái xanh tươi của tiếng Việt, và quan trọng hơn, đằng sau sự xanh tươi đó là cả một nền văn hóa Việt. Dạy tiếng Việt không chỉ cho các em hiểu được cách nói của người Việt mà còn cho các em hiểu cả cách nghĩ và hiểu được tâm hồn người Việt.

Cũng cần nói thêm rằng theo cách dạy của chúng tôi thì những tri thức mà sách giáo khoa yêu cầu, cuối cùng cũng đến với học sinh, nhưng đến bằng một con đường khác. Tri thức nào đã đến với học sinh thì sẽ ở lại với các em lâu dài. Còn dạy theo sách giáo khoa và cách dạy hiện nay thì những tri thức đó khắc đến rồi cũng khắc đi, đúng như dân gian nói: "Chữ thầy rồi lại trả cho thầy" mà thôi.

Trên đây là một số quan điểm và phương pháp dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông mà chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm trong mấy năm qua. Kết quả của những thực nghiệm này đã đến với sinh viên thông qua các tiết dạy mẫu do tôi thực hiện ở trường phổ thông. Và kết quả đó, một lần nữa đã được kiểm nghiệm trong đợt thực tập sư phạm của sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Huế vừa qua. Hiện nay các em không sợ phải dạy tiếng Việt như sinh viên các khóa trước đây, trong khi đi thực tập sư phạm. Hầu hết các em đều thích dạy tiếng Việt và sẵn sàng nhận dạy nhiều tiết tiếng Việt. Và kết quả của đợt thực tập về môn tiếng Việt các em đều đạt điểm khá và giỏi. Kết quả này cũng được trường phổ thông của hai huyện Hương Trà và Hương Thủy ghi nhận, trong đợt thực tập sư phạm đầu năm 1991.

V.X.T
(TCSH50/07&8-1992)

-------------------------------
(1) Tài liệu bồi dưỡng giáo viên phục vụ thay sách CCGD lớp 6, tr.17 do Cục các trường sư phạm, Bộ giáo dục ấn hành, 1985.
(2) Dạy ngữ pháp lớp 6, Nhà xuất bản giáo dục, 1976, phần hướng dẫn chung trang 6-7.
(3) Chương trình cao đẳng sư phạm, Bộ môn tiếng Việt và văn học, áp dụng từ năm học 1988 - 1989, Bộ giáo dục, Hà Nội, 1988.
(4) Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa học xã hội, 1973, tr.45.
(5) Sách đã dẫn, trang 37.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.