VÕ XUÂN TRANG
Dạy tiếng Việt cho học sinh bản ngữ nên dạy cái gì? Câu hỏi này đặt ra tưởng như thừa lại hết sức cần thiết và cho đến nay các nhà ngôn ngữ học cũng như các nhà giáo dục học văn chưa trả lời được một cách rõ ràng và dứt khoát.
Ảnh: Internet
Vì vậy hậu quả mà học sinh phổ thông đặc biệt là học sinh cấp II gánh chịu là phải học một bộ sách giao khoa tiếng Việt hết sức nặng nề nhưng không mấy thiết thực, vì đó là một bộ giáo trình tiếng Việt ở bậc đại học được rút gọn và được thay thế bằng một hệ thống thuật ngữ có vẻ dễ hiểu hơn.. Cùng với bộ sách giáo khoa, học sinh còn bị "tra tấn" bởi một phương pháp dạy học theo một qui trình đơn điệu, máy móc và khô khan. Hiện nay, sách giáo khoa tiếng Việt, Bộ đã ban hành và đang là pháp lệnh. Do đó, vấn đề chúng ta cần bàn và nên bàn một cách thiết thực là dạy như thế nào trên cơ sở bộ sách giáo khoa tiếng Việt hiện có.
Trước khi bàn vấn đề dạy như thế nào đối với bộ sách giáo khoa tiếng Việt hiện có, cũng nên làm rõ một số vấn đề thuộc chương trình và sách giáo khoa.
1. Dạy tiếng Việt cho học sinh bản ngữ là dạy kiến thức về tiếng Việt hay dạy tiếng Việt với tư cách là một công cụ để giao tiếp và tư duy?
Theo chương trình qui định của Bộ, sách giáo khoa tiếng Việt vừa dạy kiến thức tiếng Việt vừa dạy kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh nhưng trong đó phần dạy kiến thức tiếng Việt vẫn là chủ yếu. Trong các nhiệm vụ của bộ môn tiếng Việt thì nhiệm vụ số một được Bộ qui định như sau: Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, tương đối hoàn chỉnh, có hệ thống về tiếng Việt, làm cơ sở cho việc trau dồi và phát triển năng lực ngôn ngữ cho học sinh... Thông qua các chức năng chủ yếu của ngôn ngữ, tiếp tục rèn luyện cho các em kỹ năng nghe, đọc, viết tiếng Việt văn hóa... (1) So sánh với nhiệm vụ và yêu cầu cơ bản của việc dạy - học tiếng Việt ở cấp II phổ thông do Bộ qui định trước cải cách giáo dục là: Phát triển ngôn ngữ và tư duy của học sinh, làm cho các em đọc, nói, viết đúng tiếng Việt, hiểu được cách diễn đạt bằng tiếng Việt của người khác và có khả năng xem xét, suy nghĩ hợp lô-gích (2) thì chương trình và sách giáo khoa tiếng Việt cải cách giáo dục là một thụt lùi đáng tiếc. Sở dĩ có tình trạng nước đôi vừa dạy kiến thức vừa dạy kỹ năng sử dụng ở trường phổ thông đối với bộ môn tiếng Việt như đã nói ở trên, nguyên nhân chủ yếu là do chưa phân biệt rạch ròi đối với trường phổ thông thì tiếng Việt là môn học đối tượng như các môn học khác hay chỉ là môn học công cụ? Theo tôi cần phải khẳng định một cách dứt khoát rằng, đối với trường phổ thông thì tiếng Việt chỉ là môn học công cụ và không nên coi là môn học đối tượng. Những tri thức về tiếng Việt mà trường phổ thông cần cung cấp cho học sinh chỉ nên giới hạn ở một mức độ tối giản và phải bằng một con đường khác không giống như con đường hình thành tri thức của các môn học đối tượng. Tiếng Việt với tư cách là môn học công cụ thì những tri thức mà bộ môn này cung cấp cho học sinh phải bằng con đường chấp nhận và dần dần tự ý thức hóa trong quá trình học tập và rèn luyện. Để kết thúc những điều trình bày trên đây, tôi xin dẫn chứng thêm nhiệm vụ bộ môn tiếng Việt do Bộ qui định cho trường Cao đẳng sư phạm để có thể thấy rõ hơn sai lầm của chương trình và sách giáo khoa tiếng Việt phổ thông đã mắc phải. Chương trình môn tiếng Việt của trường Cao đẳng sư phạm diện rộng, với thời gian 310 tiết chưa kể 85 tiết tập làm văn, có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
1. Cung cấp những kiến thức cơ bản, hiện đại và có hệ thống về ngôn ngữ học và tiếng Việt (về các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách).
2. Rèn luyện kỹ năng đọc, nói, kỹ năng vận dụng đúng và thành thạo các qui tắc dùng từ, đặt câu, bồi dưỡng khả năng tự rèn luyện kỹ năng thực hành tiếng Việt.
3. Thông qua việc cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng, giáo dục tinh thần tôn trọng và yêu quí tiếng Việt (3).
Ba nhiệm vụ này được qui thành hai nhiệm vụ của bộ môn tiếng Việt ở trường phổ thông, có khác chăng là ở trường Cao đẳng sư phạm có thêm phần kiến thức về ngôn ngữ học với tỷ lệ thời gian chiếm 1/5. Sự lầm lẫn nói trên là ngọn nguồn gây bao tai họa cho cả giáo viên và học sinh vì họ phải dạy và phải học một chương trình quá tải và thực sự không cần thiết lắm.
Do phải cung cấp những kiến thức mà chương trình và sách giáo khoa qui định nên đến lượt người dạy lại tiếp tục "hành hạ" học sinh bằng cách dắt dẫn học sinh đi lại chính con đường mà các nhà ngôn ngữ học đã đi. Từ việc quan sát, phân tích các hiện tượng ngôn ngữ cụ thể rồi khái quát rút ra các khái niệm, các qui luật... Để né tránh sai lầm này, trong chỉ đạo Bộ có hướng dẫn phải dành hơn một nửa thời gian của tiết học tiếng Việt cho việc luyện tập thực hành. Mặc dầu Bộ qui định như vậy, nhưng qua dự giờ, theo dõi nhiều giáo viên dạy, chúng tôi thấy trên thực tế phần lớn giáo viên đều loay hoay với việc truyền thụ kiến thức, hình thành khái niệm nên không còn bao nhiêu thời gian để luyện tập thực hành. Còn luyện tập và thực hành như thế nào cũng là những vấn đề đáng phải bàn. Với cấu tạo bài học của sách giáo khoa hiện nay thì phần luyện tập, thực hành chủ yếu là để củng cố các tri thức về tiếng Việt đã được cung cấp ở phần lý thuyết. Đó là thực trạng đáng buồn hiện nay của bộ môn tiếng Việt ở trường phổ thông từ khâu chương trình đến sách giáo khoa và cả cách giảng dạy ở trên lớp.
2. Dạy tiếng Việt với tư cách là một công cụ giao tiếp thì nên dạy cái gì?
Đóng góp quan trọng nhất của Xô-Xuya là tách hoạt động ngôn ngữ ra làm hai mặt: mặt xã hội và mặt cá nhân. Tương ứng với mặt xã hội là ngôn ngữ, còn tương ứng với mặt cá nhân của hoạt động ngôn ngữ là lời nói. Theo Xô-Xuya, ngôn ngữ là cần thiết để cho lời nói có thể hiểu được và gây được tất cả những hiệu quả của nó; nhưng lời nói lại cần thiết để cho ngôn ngữ được xác lập; và về phương diện lịch sử, sự kiện lời nói bao giờ cũng đi trước (4).
Cũng có thể hình dung ngôn ngữ là cái khái quát, cái trừu tượng, vì nó là sản phẩm của toàn xã hội, còn lời nói là cái cụ thể, cái sinh động vì nó là sản phẩm của từng cá nhân. Theo Xô-Xuya thì ngôn ngữ tồn tại dưới dạng tiềm năng trong mỗi bộ óc hay nói đúng hơn, trong các bộ óc của một tập thể, vì ngôn ngữ không có mặt đầy đủ trong một người nào, nó chỉ tồn tại một cách vẹn toàn trong quần chúng (5). Ngôn ngữ được hình thành dần dần ở đứa trẻ thông qua quá trình tập dượt và tiếp thu, rồi được định hình trong bộ óc. Từ những nhận thức trên đây, chúng tôi cho rằng: đối với học sinh phổ thông thì bộ môn tiếng Việt không nên đi sâu vào những cái khái quát, trừu tượng của ngôn ngữ mà nên dành nhiều thời gian để cung cấp cho học sinh những cái cụ thể, sinh động của lời nói. Dạy theo sách giáo khoa cải cách về cơ bản là dạy ngôn ngữ vì trong đó phần lớn là dạy các khái niệm của ngôn ngữ học nói chung chứ không riêng gì tiếng Việt, như: danh từ, đại từ, số từ,... Nếu nói bằng hình ảnh thì dạy như vậy là dạy cái màu xám của tiếng Việt. Chính lời nói là cái xanh tươi phong phú sinh động của tiếng Việt mà nhà trường cần cung cấp cho học sinh, vì đó là cái mà học sinh cần mà đang thiếu. Tóm lại, đối với học sinh, đặc biệt là học sinh cấp I, cấp II thì dạy tiếng Việt không nên dạy lý thuyết (tức là không nên dạy ngôn ngữ, mà chỉ nên dạy cây đời (tức là dạy lời nói)). Cũng cần nói thêm rằng, giữa ngôn ngữ và lời nói có một sự gắn bó và lệ thuộc lẫn nhau hình như khó lòng tách ra được. Nhưng về điểm này, Xô-Xuya cũng đã khẳng định: Ngôn ngữ vừa là công cụ vừa là sản phẩm của lời nói. Nhưng mặc dầu có những mối liên hệ đó, ngôn ngữ và lời nói vẫn là hai sự vật hoàn toàn tách biệt nhau.
Với kết cấu bài học gồm ba phần như trong sách giáo khoa, nên khi dạy tiếng Việt giáo viên thường dắt dẫn học sinh đi theo con đường qui nạp để hình thành các khái niệm, qui tắc và cuối cùng là luyện tập để củng cố các tri thức đã học được. Con đường đó chỉ có thể áp dụng khi tiếng Việt trở thành một môn học đối tượng như các môn toán, lý, hóa... Còn theo quan niệm của chúng tôi, ở trường phổ thông, tiếng Việt chỉ là một môn học công cụ thì phải thiết kế lại bài giảng và dạy theo một cách khác. Để minh họa cho những điều trình bày trên, tôi xin lấy một bài dạy cụ thể. Bài chúng tôi chọn là một bài khô khan nhất trong các bài khô khan có trong sách giáo khoa. Đó là bài Số từ.
Với kết cấu bài học trong sách giáo khoa tiếng Việt, lớp 6, tập 2 thì giáo viên phải từ những ngữ liệu có sẵn rồi dắt dẫn học sinh hiểu thế nào là số từ chỉ số lượng và thế nào là số từ chỉ thứ tự và số hiệu. Ý nghĩa và hoạt động ngữ pháp của hai loại số từ. Và cuối cùng là làm một số bài tập để ghi nhớ những điều đã học về số từ. Đứng về mặt lời nói mà xét, người Việt có những cách dùng số từ riêng và cách dùng số từ của người Việt qua ca dao, tục ngữ, thành ngữ và lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân ta phong phú vô cùng. Dạy số từ tiếng Việt mà không cung cấp cho học sinh biết sự phong phú trong cách dùng số từ của người Việt là một thiếu sót lớn.
Vì vậy, khi dạy bài này tôi không đi theo con đường đó. Mở đầu có thể thông qua một cuộc đàm thoại ngắn, tôi cho học sinh biết ngay hai loại số từ trong tiếng Việt. Sau đó tôi dành một số thời gian thích đáng để kiểm tra xem vốn liếng về cách dùng số từ của học sinh. Kết quả với học sinh lớp 6, vốn liếng của các em về cách dùng từ còn rất hạn chế. Các em cũng chỉ có thể nêu được một số câu tục ngữ, thành ngữ và một vài cách nói quen thuộc có dùng số từ. Khi các em đã cạn vốn, tôi bắt đầu cho các em biết những cách dùng số từ rất độc đáo, rất lạ của nhân dân ta, qua kho tàng ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ, câu đố văn thơ... mà các em chưa biết hoặc có biết nhưng không nhớ vì chỉ mới nghe một vài lần. Và thế là chỉ trong 30 phút vốn liếng sử dụng số từ xưa đến nay qua bao thế hệ đã hiện ra mồn một trước mắt và trong đầu các em.
Thời gian còn lại tôi lần lượt chỉ ra những cái tinh tế, phong phú và cả những sự biến hóa trong cách dùng số từ của tiếng Việt. Chẳng hạn, nghĩa xác định và không xác định của số từ tiếng Việt, đặc biệt là nghĩa không xác định như: Một mất mười ngờ, Mười voi không được bát nước xáo, Một trăm con gái rửa chân cầu này. Trăm năm trong cõi người ta, Dẫu xa nhau ba vạn chín ngàn ngày không xa,...; những cách dùng số từ rất đặc biệt, có vẻ như bất thường: Ba chân bốn cẳng, Một chân bước ra ba chân bước lại, Mồm năm miệng mười,...; sự phong phú trong việc vừa dùng số từ thuần Việt vừa dùng số từ Hán Việt như: Một, hai, ba, bốn, nhất, nhì, ba, tư... Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua... Những sự biến âm trong khi dùng số từ, cùng một số từ nhưng trong những kết hợp khác nhau lại có những cách biến âm khác nhau như: mười và mươi (mười ba / ba mươi), một và mốt (mười một / hai mươi mốt), năm, lăm và nhăm, (một trăm linh năm, mười lăm, hai mươi lăm / nhăm...) Vì thời gian có hạn nên chỉ mách bảo cho học sinh được đôi điều như vậy. Qua theo dõi chúng tôi thấy học sinh không những hứng thú học tập mà còn tỏ ra tiếc rẻ, thòm thèm vì thời gian quá ít. Và cũng nên cho học sinh thòm thèm để các em tìm tòi và sáng tạo thêm. Với dạng bài cung cấp khái niệm chúng tôi đều dạy theo cách đó.
Dạy tiếng Việt theo quan niệm và phương pháp như chúng tôi trình bày là dạy cái xanh tươi của tiếng Việt, và quan trọng hơn, đằng sau sự xanh tươi đó là cả một nền văn hóa Việt. Dạy tiếng Việt không chỉ cho các em hiểu được cách nói của người Việt mà còn cho các em hiểu cả cách nghĩ và hiểu được tâm hồn người Việt.
Cũng cần nói thêm rằng theo cách dạy của chúng tôi thì những tri thức mà sách giáo khoa yêu cầu, cuối cùng cũng đến với học sinh, nhưng đến bằng một con đường khác. Tri thức nào đã đến với học sinh thì sẽ ở lại với các em lâu dài. Còn dạy theo sách giáo khoa và cách dạy hiện nay thì những tri thức đó khắc đến rồi cũng khắc đi, đúng như dân gian nói: "Chữ thầy rồi lại trả cho thầy" mà thôi.
Trên đây là một số quan điểm và phương pháp dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông mà chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm trong mấy năm qua. Kết quả của những thực nghiệm này đã đến với sinh viên thông qua các tiết dạy mẫu do tôi thực hiện ở trường phổ thông. Và kết quả đó, một lần nữa đã được kiểm nghiệm trong đợt thực tập sư phạm của sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Huế vừa qua. Hiện nay các em không sợ phải dạy tiếng Việt như sinh viên các khóa trước đây, trong khi đi thực tập sư phạm. Hầu hết các em đều thích dạy tiếng Việt và sẵn sàng nhận dạy nhiều tiết tiếng Việt. Và kết quả của đợt thực tập về môn tiếng Việt các em đều đạt điểm khá và giỏi. Kết quả này cũng được trường phổ thông của hai huyện Hương Trà và Hương Thủy ghi nhận, trong đợt thực tập sư phạm đầu năm 1991.
V.X.T
(TCSH50/07&8-1992)
-------------------------------
(1) Tài liệu bồi dưỡng giáo viên phục vụ thay sách CCGD lớp 6, tr.17 do Cục các trường sư phạm, Bộ giáo dục ấn hành, 1985.
(2) Dạy ngữ pháp lớp 6, Nhà xuất bản giáo dục, 1976, phần hướng dẫn chung trang 6-7.
(3) Chương trình cao đẳng sư phạm, Bộ môn tiếng Việt và văn học, áp dụng từ năm học 1988 - 1989, Bộ giáo dục, Hà Nội, 1988.
(4) Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa học xã hội, 1973, tr.45.
(5) Sách đã dẫn, trang 37.
HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...
HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.
TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)
NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.
THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.
HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.
PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.
MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.
TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.
ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…
ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.
LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.
INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)
HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...” Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?
HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.
LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.
INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?