Một ngày theo Nguyễn Tuân đi chơi Huế

16:57 15/09/2008
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

Hôm ấy anh Trần Hoàn, lúc đó đang làm trưởng ty Văn hóa Thừa Thiên Huế, gọi tôi lên phòng anh, bảo:
- Ngày mai anh Nguyễn Tuân vào thăm Huế, em sắp xếp đi chơi với anh Nguyễn Tuân nhé!
Quả thật tôi ngại. Đi với Nguyễn Tuân, một người thông minh và hiểu biết như thế, lỡ có gì anh ấy hỏi mà mình không trả lời được thì còn ra làm sao nữa. Nghĩ thế, tôi bảo anh Trần Hoàn:
- Anh Nguyễn Đắc Xuân, anh Phan Thuận An là những người am tường về Huế, anh nên bảo các anh ấy đi chắc là thuận lợi hơn em.
Anh Trần Hoàn cười độ lượng:
- Dại thế. Đi với anh Nguyễn Tuân để anh ấy dạy cho chứ.
À, ra anh Trần Hoàn có ý tốt vậy. Tôi nhận lời.
Hôm sau, mới đầu giờ chiều tôi đã tới hội văn nghệ 26 Lê Lợi đón anh Nguyễn Tuân.
Xe anh Nguyễn Tuân tới, tôi giúp anh xách đồ vào phòng, rồi chạy ngay ra xem anh Tuân có cần gì. Anh đứng đợi tôi ngoài cổng. Anh vẫy tôi theo. Từ hội văn nghệ ra sông Hương chưa đầy 100 mét. Anh Nguyễn Tuân lững thững đi, tôi theo sau. Đứng bên bờ sông Hương, anh Nguyễn Tuân nhìn ngược dòng nước, lại nhìn xuôi dòng nước, rồi anh nói như anh nói với một người bạn đứng bên mình:
- Sông Hương ơi! Nguyễn Tuân đã về đây.
Nói xong, đứng thẫn thờ một lúc, anh quay vào. Tôi có cảm giác sông Hương với Nguyễn Tuân giống như một người bạn thân lâu ngày gặp lại.
Lúc chia tay, anh Tuân dặn:
- Ngày mai anh em mình đi chơi sông Hương nhé!
Sáng hôm sau tôi cho đò tới đón anh. Hai anh em ngược sông. Anh Tuân bảo:
- Không thi thố gì với ai, cứ cho đò chạy chậm, để anh em mình vừa đi vừa ngắm cảnh.
Anh Nguyễn Tuân ngồi ngay mũi đò. Chả thấy lúc nào anh ngồi yên. Khi thì nhìn qua dòng nước trong vắt, anh ngắm những sợi rong cùng mấy con cá nhỏ lượn lờ dưới đáy sông, khi thì anh xắn tay áo, thả cả nửa cánh tay xuống nước để xem dòng nước mát đến đâu, khi thì anh đứng lên ngắm hết những chùm quả sung súc sỉu bờ bên này, rồi lại ngắm những ngọn tre lả lướt vươn dài ra đùa giỡn với những ngọn sóng lăn tăn.
Khi đò đi qua Kim Long, anh Nguyễn Tuân đọc câu thơ xưa, mà như đang tự nói với chính mình:
“Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi”.
Rồi anh tự mỉm cười như đang sống trong ký ức mình, một kỷ niệm xa xưa.
Từ Kim Long, mắt Nguyễn Tuân chạm vào ngọn tháp 7 tầng chùa Thiên Mụ. anh nhìn mãi, vậy mà đò đi qua chùa, anh vẫn lẳng lặng không nói gì. Anh quay qua nhìn đăm đắm làng Nguyệt Biều như đang tìm ở đó canh gà xứ Thọ Xương xưa.
Đi đến đoạn sông giữa chùa Thiên Mụ và điện Hòn Chén, anh bảo cho dừng đò lại. Anh chắp hai tay phía trước, nhìn xuống dòng sông, một lát sau anh nói:
- Ở chính chỗ sông này em ạ, ông già của anh đã làm một câu thơ, câu thơ như thế này: “Sông Hương có nhớ ta chăng. Ta đi ta nhớ cái thằng đò đưa”. Đầu óc các cụ cũng ngang tàng lắm phải không em?
Trong bụng tôi nghĩ không biết các cụ có sống ngang tàng đắm đuối như Nguyễn Tuân bây giờ?
Đò qua điện Hòn Chén, tới chợ Tuần, tôi bảo anh:
- Chợ Tuần có cháo bầu dục nổi tiếng lắm, hai anh em ta lên ăn sáng rồi qua thăm lăng Minh Mạng.
Vào quán, tôi gọi cho hai tô cháo bầu dục.
Anh Tuân bảo:
- Để đó cho anh.
Rồi anh tới gần ông chủ quán đứng bên nồi cháo, anh xin tự làm. Anh lấy những miếng bầu dục đã thái, bỏ vào chiếc thìa, loại thìa có nhiều lỗ ở lòng thìa, anh nhúng thìa bầu dục vào nồi cháo, một tí lại nhấc lên xem. Cuối cùng anh đổ bầu dục vào hai tô, bấy giờ mới cho ông chủ quán múc cháo vào, bưng ra bàn cho chúng tôi.
Anh Tuân múc khẽ từng miếng bầu dục, nhai chậm chạp như vừa nhai vừa suy nghĩ, anh nói:
- Nhiều hàng cháo bầu dục họ không biết làm, bầu dục chín quá, cứng queo, ăn cứ bã ra. Anh chỉ nhúng cho bầu dục vừa chín tới. Em ăn thấy miếng bầu dục có ngọt không?
Người ta thường bảo anh Nguyễn Tuân rất sành ăn. Quả là như vậy, miếng bầu dục nào cũng ngọt thỉu, mới nhai đã tan ra cùng cháo, tô cháo thơm ngọt hẳn lên.
Ăn cháo xong, hai anh em qua sông vào lăng. Gặp ông già trông coi lăng ở giữa sân. Vì lịch sự, tôi để hai người trò chuyện lang thang với nhau. Lúc ra về Nguyễn Tuân chỉ người coi lăng, nói với tôi:
- Đừng bao giờ coi thường người coi lăng. Đó mới chính là người giữ gìn nền văn hóa của chúng ta.
Dừng một lát, Nguyễn Tuân nói tiếp:
- Anh hỏi ông giữ lăng: Lăng Minh Mạng khác với các lăng khác ở chỗ nào? Ông đáp: Ông có thấy từ cổng vào, qua nhà bia, qua điện thờ, cho đến nơi cuối cùng là mộ Minh Mạng thẳng tắp không? Thời Minh Mạng là thời nghiêm minh, thịnh trị nhất của nhà Nguyễn, nên kiến trúc lăng thẳng tắp như hình một lưỡi gươm. Đường thẳng này là biểu tượng đường thẳng của lưỡi gươm thời thịnh trị đó ông ạ.
Ông gật gù:
- Tuyệt. Trông con người khù khờ, bình thường thế kia mà thật uyên bác, thật sâu sắc. Sâu sắc đến thế là cùng.
Quả thật cách nhìn đời, nhìn người của Nguyễn Tuân cũng khác người. Ông biết trong những nhân cách, những tài năng, chứ không đánh giá con người ở dáng vẻ bề ngoài.
Đến trưa anh em chúng tôi thả đò theo dòng nước về xuôi. Mặt nước sông phẳng như mặt gương, lững lờ đến nỗi người ngồi trên đò cũng không nhận ra dòng nước chảy. Ngồi trên đò thật êm, không cả cảm thấy bồng bềnh. Đò qua Bạch Thổ, qua Suối Yến, qua Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu về Vĩ Dạ. Nguyễn Tuân đứng trên đò nhìn bao quát vùng Cồn Hến, Vĩ Dạ. Ông hỏi tôi:
- Em có biết vì sao có tên Vĩ Dạ không?
Tôi đáp:
- Em nghe nói xưa Vĩ Dạ là một vùng lau lách, ngút ngàn màu trắng hoa lau nên có tên như vậy.
Ông khen:
- Khá!
Rồi ông gật gù:
- Dấu tích lau lách còn trong thơ Hàn Mặc Tử. Chỉ có Hàn Mặc Tử tài hoa mới có cái nhìn vời vợi đến như vậy – Ông đọc – “Trong khóm vi lau dào dạt mãi. Nỗi lòng ai đó sao im đi. Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm. Lộ cả khuôn vàng dưới đáy khe”.
Tôi nhìn ông đọc thơ, mà đôi mắt ông mơ màng, vẻ không nhìn đâu cả, mà như ông lại đang nhìn đi rất xa. Cũng đôi mắt ấy, cũng tâm trạng ấy khi đò đi qua vùng đất của thành Hóa Châu xưa. Ở những giây phút ấy con người nghệ sĩ trong Nguyễn Tuân bộc lộ một cách hết sức kín đáo, lặng thầm. Hèn chi những trang viết của ông về Huế cứ nặng trĩu từng con chữ.
Đến phá Tam Giang, Nguyễn Tuân thích trèo thang lên nhà chồ để hưởng cái gió Tam Giang mênh mông, rồi ông xuống đò lang thang hết bờ nò sáo này đến bờ nò sáo kia. Ông bảo tiếc là lúc này chưa phải chập choạng hoàng hôn để nhìn đàn tôm kéo nhau đi kiếm ăn, lần lần bên hàng cọc nò. Ở đây, thêm một lần nữa Nguyễn Tuân bộc lộ cái thú nhấm nháp của mình.
Trong đò của ngư dân trên phá Tam Giang, đò nào cũng có bếp, có lò than để chiều khách ăn đặc sản của phá. Hôm nay Nguyễn Tuân không ăn trên đò, ông bảo đem lò than và tôm lên ngồi bên giếng Cam Lồ ngay dưới chân núi Túy Vân để nhấm nháp. Ông tự nướng lấy tôm. Đôi đũa ông gắp tôm lật đi lật về. Ông chìa một con tôm vừa gắp trong lò ra, đưa đến trước mặt tôi, ông bảo:
- Em ạ, nướng tôm còn một chút lòng đào như thế này, ăn mới biết thế nào là vị tôm ngọt. Tôm phá Tam Giang, tôm rằn nước lợ ở đây ngon nhất nước đó, em à.
Vừa nướng tôm, ông vừa lấy ra từ túi áo ngực trái một chai rượu chỉ to bằng bốn ngón tay và cũng lép như bàn tay, ông chạm chai vào vai trần của tôi:
- Em có thấy chai rượu ấm lên không? Hơi nóng của trái tim ủ nó nóng lên đấy. Uống rượu nóng thế này mới bốc và mới biết thế nào là hương thơm của rượu.
Ông lấy trong túi áo kia một chiếc chén nhỏ bằng hạt mít. Ông chắt rượu ra đó, mỗi chén rượu, ông lại nhắm một con tôm lòng đào. Ông đưa cho tôi một chén rượu:
- Nào em, hãy nếm một chút hương vị thanh tao của cuộc đời này đi.
Quả nhiên uống rượu nóng thấm thía một cách kỳ lạ. Tôi chợt nhớ câu thơ của Nguyễn Bính: “Em rót cho anh nước rượu đầu. Hai đứa uống chung và lại thẹn. Nghẹn ngào hai đứa uống chung nhau”.
Quay nghiêng, tôi thấy bóng chúng tôi in trên mặt nước giếng Cam Lồ. Giếng nước ngon đến nỗi hàng ngày vua nhà Nguyễn cho thuyền xuống đây, múc nước Cam Lồ đem về cho cả Hoàng cung dùng. Dẫu Nguyễn Tuân không nói gì về cái giếng này, song tôi hiểu thâm ý của ông, cuộc chơi nào của ông cũng đến tận cùng.
Chiều ông bảo đem đò chở ông ra cửa Tư Hiền, đó là cửa biển thông từ đầm Cầu Hai ra biển. Đò dừng trước cửa biển, Nguyễn Tuân rót chén cuối cùng trong cái chai lép ra uống nốt. Khà một tiếng khoái trá, ông vừa hỏi tôi, lại vừa trả lời:
- Em có biết tại sao cửa Tư Hiền có hai tên gọi không? Tên thứ hai là cửa Tư Dung. Vì lần ấy vua Lê Thánh Tông vào dẹp giặc Chiêm Thành. Thuyền ông vào đầm Cầu Hai tránh gió. Qua cửa này ông gặp một người con gái đẹp, ông đã đặt tên Tư Dung để kỷ niệm cuộc gặp gỡ tình cờ mà tuyệt vời này – Ông chép miệng – Tư Dung! Tư Dung! Tư Dung! Tuyệt thật.
Mặt trời tà tà, tôi nhắc ông đã đến lúc về, ông cười bảo tôi cho đò ra đứng ngoài cửa Tư Dung. Bờ biển phía cửa Tư Dung là Chân Mây. Ông cứ cho đò đứng đó như chờ đợi, mà đúng là chờ đợi thật. Lát sau ông chỉ cho tôi ở bãi Chân Mây, nước bốc hơi lên thành cột, thành một cột mây. Cột mây lên thật cao rồi cứ thế từ từ thành đám mây trắng bay về núi Túy Vân, mây quanh quẩn ở đó mãi rồi mới bay về ngọn Bạch Mã ở phía Tây. Cuộc xoay vần mây kỳ lạ như thế nên có tên Chân Mây và Túy Vân là vậy.
Nguyễn Tuân nói:
- Tiềm năng du lịch của Huế vời vợi, không biết bao giờ họ mới biết khai thác tiềm năng này đây.
Đám mây từ Chân Mây ra Túy Vân và bây giờ nó ôm lấy ngựa Bạch Mã ngủ, như đứa con nhỏ ngủ thiếp trên ngực mẹ, ông mới cho đò về.
Anh Trần Hoàn đợi đò ở bến Trường Tiền. Bạn Huế tíu tít dắt Nguyễn Tuân về quán Âm Phủ, đi sau anh Hoàn hỏi:
- Sao, một ngày đi với Nguyễn Tuân sao?
Tôi đáp:
- Đúng như anh nói. Kiến thức của anh Nguyễn Tuân thật mênh mông. Cám ơn anh đã cho em theo anh Nguyễn Tuân đi chơi Huế.
- Ngày mai đi tiếp chứ?
Tôi reo lên:
- Ôi, còn gì bằng. Xin anh cho em đi hết cuộc chơi này nhé!
Anh Hoàn gật đầu hể hả như vừa làm xong một bản nhạc Sơn Nữ ngày nào.
N.Q.H

(nguồn: TCSH số 227 - 01 - 2008)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN QUANG HÀHầu như mỗi chúng ta chỉ biết Mai Xuân Hòa là nhạc sĩ. Anh đã ra mắt hai tập nhạc viết cho người lớn: "Nỗi đợi chờ", "Khát vọng",và hai tập cho thiếu nhi: " Những điều em thích", " Những ngôi sao đẹp".

  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.