THANH THANH
Thật bất ngờ đọc lại một năm thơ Sông Hương dưới trăng rằm mười bốn chạp rồi ngơ ngẩn bấm đốt tay.
Ảnh: internet
Kể từ số Tết Nhâm Thân sang số Tết Quý Dậu, tạp chí đã đăng gần 170 bài thơ. Có cả trang thơ đầu tay, thơ thiếu nhi và thơ dịch. Nếu mỗi tập thơ 30 bài, thì bấy nhiêu thơ một năm Sông Hương xem như đã xuất bản cũng được năm sáu đầu sách thơ.
Cũng theo lối bấm đốt tay dưới trăng khuya, ngạc nhiên sao, chín năm thơ về trước Sông Hương đã đến với bạn đọc thơ cả nước ngút ngát đến gần 1.500 bài thơ. Bao nhiêu bài thơ là bấy nhiêu hồn thơ, giọng thơ... Cũng có đôi năm Sông Hương thẩm chọn, tặng thơ hay.
Đêm nay dưới khuôn trăng đầy đặn năm Thân, nếu chợt nhớ thì nhớ bài thơ "Mẹ và quả" - Nguyễn Khoa Điềm, 1983, "Không ghen" - Thu Châu 1984, "Tạm biệt Huế" - Thu Bồn, 1986!
Năm 1992, một năm thơ Sông Hương, thật mừng có hai chùm trao thưởng. Chùm thơ ba bài của nhà thơ Hoàng Trung Thông - số 6 và chùm thơ ba bài của nàng thơ trẻ, Nhật Lệ - số 2. Ngoài hai chùm thơ ấy ra, có thể người yêu thơ Sông Hương còn nhớ các chùm thơ của nhà thơ Hồng Nhu, nhà thơ Vũ Quần Phương, nhà thơ Ngô Thế Oanh, các chùm thơ của những cây bút trẻ, mới xuất hiện Hồng Hạnh, Đặng Thành... Phải số 2, số 3, và số 6 dồn nhiều bài thơ, và chùm thơ hay, khá.
Thật tình thơ số Tết Nhâm Thân non, nhưng lại được cái tình gặp gỡ nhân khi nổ pháo giao thừa sau một chặng đường Sông Hương gặp đầy thử thách, tự khẳng định, tìm lại dòng chảy chính lưu của một vùng văn học trên từng trang biên tập. Sang số Tết Quý Dậu, gần cả ba chục bài thơ, vừa thơ đầu tay, thơ thiếu nhi thơ dịch.
Chọn bài xuất sắc để 93 trao thưởng thì khó. Nhưng ở từng bài thơ, hồn thơ, giọng thơ chợt có gì phảng phất như dòng Hương Giang, ẩn sâu trong làn nước kinh thành chút chất thơm của loài cây xương bồ. Một loài cây đặc biệt, thơm của trời đất, thơm của đời cây lại chứa chất ở rễ chứ không như muôn cây khác, thơm ở hoa. Thật lạ lùng mà cũng thật tình, yêu Huế cũng được gọi nửa đời người, mà nào đã một lần được thấy xương bồ? Xương bồ ở tận nguồn Hương Giang thơm về kinh thành rồi ra tới biển, có đồng điệu cái huyền ảo khó nắm bắt của thơ...?
Thơ Sông Hương có truyền thống tập họp, gặp gỡ được đủ gương mặt thơ của cả nước. Ngay từ mười số đầu tiên của hai năm 83 - 84 đã có thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Vũ Quần Phương, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Ý Nhi... Và hầu hết các thi sĩ ấy đã từng đến tuyến lửa Quảng Bình những năm 60, 70 vào Quảng Trị giải phóng năm 1972, về Huế sau mùa xuân 1975 đã họp lưu lại thành một dòng thơ kháng chiến chống Mỹ.
Bên cạnh những nhà thơ tên tuổi khắp Trung, Nam, Bắc, lớp thơ trẻ của Bình Trị Thiên có Nguyễn Quang Lập - Nguyễn Quang Lập bước vào làng văn bắt đầu từ bài thơ được giải của báo Tiền Phong, Vĩnh Nguyên, Thái Ngọc San, Trần Huyền Trang, Hải Kỳ, Mai Nguyên, Thiệp Đáng, Lý Hoài Xuân, Trần Hoàng Phố, Phạm Tấn Hầu, Ngô Minh, Nguyễn Khắc Thạch, Đỗ Hoàng, Mỹ Dạ, Lê Thị Mây...
Chút lặng lẽ khơi nguồn thơ sông hương phải kể đến tầm nhìn của cựu Tổng biên tập Nguyễn Khoa Điềm. Vai trò, xu hướng thẩm thơ của anh kể từ trang thơ đầu tiên ở số một được hình thành dần, đến số thứ mười thơ của hai năm 83 - 84 xem như đã tự khẳng định để trưởng thành một vài cây biên tập thơ xuất sắc, biết gọi thơ về sông hương đúng luồng, đúng thi chất của thơ...
Những thi sĩ đã từng đến với trang thơ Sông Hương mười năm trước như người tình đến với mối tình đầu. Một năm thơ qua vẫn gởi hồn bóng mình với Huế. Bây giờ ở bên cạnh những nhà thơ đi trước là một lớp nhà thơ trẻ thứ hai của Sông Hương kể từ sau giải phóng. Lớp thơ trẻ này phần nhiều được trưởng thành trang viết đầu tay, từ câu lạc bộ thơ sinh viên của các trường đại học, từ câu lạc bộ Huế. Đấy là những Hồng Hạnh, Nhật Lệ, Đặng Thành, Thúy Nga, Tôn Nữ Ngọc Hoa, Nguyễn Thị Thái, Phạm Huy Ngữ, Nguyễn Văn Phương, Ngô Cang, Ngô Thiên Thu, Phạm Nguyên Tường, Nguyễn Văn Tánh - Hàn Thi... Lớp trẻ trước có đến dăm mười cây bút bước vào đời thơ từ ngày còn chiến tranh, giờ đã chững chạc trở thành hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Mỗi nhà thơ đã in hai ba tập; đã có hai trong số các tập thơ ấy được giải thường của Hội. Đấy là những Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Ngô Minh, Hoàng Vũ Thuật, Nguyễn Quang Lập, Võ Quê. Nhưng dẫu vậy, không phải bất kỳ nhà thơ nào đã được vào hội, đã được tác giả ghi nhận trưởng thành, lại đều có thể đi được trọn đời thơ. Trong số các anh chị ấy, sau khi chia tỉnh đã về Quảng Bình, Quảng Trị cùng các nhà thơ đàn anh như nhà thơ Xuân Hoàng, Nguyễn Văn Dinh, Hoàng Phủ Ngọc Tường... thơ lại càng duyên nợ nồng thắm với trang thơ Sông Hương...
Thật ra có rất nhiều tác giả in dù một bài trong suốt bảy số bài thơ đó vẫn đọng được trong lòng người đọc nỗi niềm gởi gắm tri âm như "Tổ Quốc" - Từ Quốc Hoài, "Mai em đi họ nội" - Lê Thái Sơn, "Bờ sông và lau lách" - Triều Tâm Ảnh; "Em và con" - Phạm Huy Ngữ; "Qua đèo Hải Vân" - Hữu Kim; "Hẹn về mùa gặt" - Ngô Cang... Đặc biệt chùm thơ 12 bài chọn từ "ngày hội thơ" của mười hai tác giả tên tuổi vừa như để khẳng định lại, vừa như để mở ra một chứng kiến tri âm tri ngộ về thẩm định thơ, bắt đúng hồn cốt tư chất của từng tác giả. Nếu kể, có thể dễ đến sáu bảy chùm thơ khá và hay trong năm. Nhưng nổi trội và gây ấn tượng sửng sốt hơn cả là chùm thơ của Nhật Lệ. Ban biên tập Sông Hương năm nay trao thưởng thơ thật có con mắt xanh. Trong ba bài của Nhật Lệ "Gởi", "Canh bạc", "Cha"... có lẽ bài "Cha" là bài hay nhất. Trong ba bài hay nhất. Nhật Lệ làm chùm thơ này năm hai mươi hai tuổi, đang học năm thứ năm khoa Nga văn trường Đại học Tổng hợp Huế. Nàng thơ có thói quen làm thơ trên nửa trang vở học trò, rồi bỏ quên đâu đó trong các sách vở ở trên bàn, và không mấy khi đưa cho cha mình - nhà thơ Xuân Hoàng - đọc. Các bài thơ rất ít vết sửa xóa, nó được viết lần đầu và rồi rụt rè gởi nguyên vậy. Trao thơ tận tay, gương mặt nàng thơ đỏ ửng như vừa đánh rơi lời tỏ tình, lo sợ đến một khi bị người tình - độc giả - hờ hững rồi quên! Phải chăng thơ khởi thủy không phải viết ra để cho mọi người đọc và càng không phải để in ngay khi mình còn sống. Dùng thơ cầu danh, cầu lợi ở cuộc đời chỉ trong ngày một ngày hai, sẽ làm thơ cụt hứng tàn chết. Còn thơ vì áo cơm thương khó với cuộc đời, vì cuộc đời thì mở trang thơ đã "đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu" để nhận biết được ngay thi chất "hữu xạ tự nhiên hương" của tâm hồn tác giả. Dòng thơ một năm rồi của Sông Hương, phải chăng thơ đã xé dòng chính ngay từ trang biên tập? Nó giản dị nhưng ấm áp gần gũi với đời trong cái tôi của chủ thể sáng tạo. Lặng lẽ bói muồi với từng ý, từng câu, từng khổ, từng bài, từng chùm. Bói muồi được một ý là có thể đứng được một câu. Có bài, hồn cốt ở một câu, một câu chỉ dăm chữ. Một tứ thơ, một bài thơ đôi khi lặng bói muồi nơi cái tình tri âm mộc mạc. Người biên tập phải nhập, phải ấn con mắt xanh vào hồn thơ của tác giả, mới mong thẩm cảm được hương, không dễ mất những bài thơ hay. Ngoài hồn cốt bói chín, bao nhiêu câu chữ còn lại là cành, là lá xây nên vòm thơ. Có thể đấy cũng chính là rễ và cả chính cội cây thơ nữa. Phân biệt được những giới hạn trên thật không dễ. Ở thơ, cái rạch ròi, cái có lý để làm cho thơ xơ chết, nhưng nó lại là nền đứng để cho cái phi lý cái siêu thực gợi mở thăng hoa tài năng. Nếu giả sử, có tác giả chơi trò chơi ngược, lấy cái phi lý, cái siêu thực, cái không chứng kiến lẽ phải làm nền cho bài thơ mình đứng, hồn thơ mình ẩn, đời thơ mình đạt đến vĩnh cửu, hẳn thơ ấy chỉ là một mớ câu chữ của bấn loạn không nên được cành, nhánh, không ươm cắm được một cội cây thơ có thể đem lại hữu ích cho đời. Nếu xáo các chồng thơ lai cảo, các bài thơ kiểu thế không phải ít. Có lẽ người biên tập đã đọc, đã buồn, rồi lặng lẽ cẩn thận để những thơ ấy vào chỗ thơ không đến thơ, không dùng được.
Gần 170 bài thơ trong một năm thơ Sông Hương nếu mạnh dạn chọn in một tập, có lẽ thừa sức có một tập thơ hay, để lại một giá trị, hy vọng được độc giả ghi nhận và đánh giá cao. Theo ý riêng tôi, số Tết Nhâm Thân chọn được 3 bài, số 2 chọn được 8 bài, số 3 chọn được 4 bài, số 4 chọn 4 bài, số 5 chọn được 8 bài, số 6 chọn được 5 bài, số Tết Quý Dậu chọn được 5 bài. Tập thơ 45 bài này thơ chảy thành một phong cách thơ Sông Hương khó lẫn với thơ báo chí khác trong nước ta. Làm điều này chưa tính đến sự đóng góp lớn lao của thành quả cao vời nào khác mà trước tiên là tính đến, chọn lựa đến một nội lực thẩm thơ, lựa chọn thơ, đánh giá thơ ngay trên trang bản thảo của tác giả gửi về tòa soạn. Có tác giả gửi trọn cả một tập vài ba chục bài, nhưng vớt vát lắm mới chọn được một bài. Nếu là tác giả của trang đầu tay đã đành, nhưng bên cạnh không hiếm những tác giả có tên tuổi cũng như vậy. Bên cạnh lại có dăm bảy tác giả gửi ba, bốn bài lại chọn được một chùm đĩnh đạc. Nghe đâu Nhật Lệ gửi 5 bài, lúc đầu người biên tập định giới thiệu cả năm.
Ở đời, cái dễ đạt, dễ được âu rồi trước thử thách thời gian, cũng có thể sẽ dễ tàn, dễ mất. Hẳn các tác giả thơ cũng tự biết mà không vội mừng, cũng không vội nản. Thử ngẩng nhìn trăng mà xem. Tuần trăng ba mươi ba mốt đêm, có đến những mười hai đêm trăng non, trăng chưa đầy và đến mười sáu, mười bảy đêm trăng khuyết. Trăng rằm đếm một, đếm hai đếm ba. Nhưng ai dám thốt lên, những khi trăng non, trăng khuyết, trăng đầy không phải trăng. Hãy thầm cảm hứng trên ba mươi, ba mốt chữ thơ. Hãy in giữa thanh thiên bạch nhật trên ba mươi, ba mốt bài thơ. Hãy lao động trên ba mươi ba mốt tập thơ. Thơ của một đời người, thơ của một năm thơ Sông Hương.
Rằm tháng Chạp Nhâm Thân
T.T
(TCSH56/07&8-1993)
NGÔ THỊ Ý NHI
Ở Huế, có những buổi sáng cứ thích nằm nghe tiếng con nít rủ nhau đến trường ríu rít như chim. Bình yên đến lạ! Thành phố nhỏ bé, nhịp sống không vội vàng, những con đường hiền lành, êm ả trẻ con dễ dàng đi bộ.
Kỷ niệm 30 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2019) và 75 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2019)
PHẠM THUẬN THÀNH
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Năm Nhâm Tý (1672), chúa Trịnh xua 180 ngàn quân vào Nam, có ý vượt sông Gianh đánh chúa Nguyễn. Trấn thủ Bố Chính là Nguyễn Triều Văn hoảng sợ chạy vô Kim Long cấp báo với Hiền Vương (tức chúa Nguyễn Phúc Tần).
TÔN THẤT BÌNH
BÙI KIM CHI
Ngày xưa, cách đây 60 năm, ở đường Duy Tân Huế từ cầu Trường Tiền đi xuống, qua khỏi Morin (cũ), đi một đoạn, có một địa điểm mang cái tên nghe là lạ Ngọ Phạn Điếm. Càng lạ và đặc biệt hơn nữa, Ngọ Phạn Điếm chỉ đón khách vào ăn một bữa trưa (demi-pension) trong ngày là học sinh của Trường Nữ Trung học Đồng Khánh Huế mà thôi.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Bút ký
KỶ NIỆM 20 NĂM CƠN LŨ LỊCH SỬ 1999
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
NGUYỄN DƯ
Ngày xưa thi đỗ tiến sĩ… sướng lắm!
Nghe đồn như vậy. Ít ra cũng được vua biết mặt chúa biết tên. Được cả làng, cả tổng đón rước về tận nhà. Chữ nghĩa gọi là rước tiến sĩ vinh quy bái tổ.
PHI TÂN
Hồi trước, khi làng xã tôi còn đoàn đội tập thể hay hợp tác xã sản xuất nông nghiệp thì đàn trâu ở làng cũng của hợp tác luôn. Trâu được các hộ xã viên nhận về nuôi để ăn chia công điểm. Nhà mô có nuôi trâu thì con cháu trong nhà phải nghỉ học sớm để chăn trâu hàng ngày.
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Ngày thơ ấu tôi đã bao lần ngủ ngon giấc trong lời ầu ơ của mẹ:
Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019) và 50 năm Ngày mất của Người (02/09)
HỒ NGỌC DIỆP
Kỷ Niệm 72 Năm Ngày Thương Binh - Liệt Sĩ (27/7/1947 - 27/7/2019)
PHẠM HỮU THU
DƯƠNG PHƯỚC THU
Nhà thơ, nhà cách mạng Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại làng Hội An, nơi xưa kia thường gọi là Faifô (vì làng này ở gần cửa Đại An nên quen gọi Hải Phố mà ra thế) nay Hội An đã lên cấp là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam; quê nội Nguyễn Kim Thành ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Dáng thế của đồi Hà Khê như một con linh thú vừa tách khỏi đất mẹ, rời tổ uống mấy ngụm nước bên bờ dòng Linh Giang. Quay đầu hướng về quê mẹ, đất tổ Trường Sơn như một lời từ biệt, lòng rộn buồn vui. Một nhát gươm chí mạng của thuật sĩ Cao Biền, thân thú mang nặng vết thương vẫn còn hằn sâu ở chân đồi.
ELENA PUCILLO TRUONG
(Viết cho những người bạn cầm phấn)
Kỷ niệm Ngày báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6
NGUYỄN XUÂN HẢI
ĐÔNG HÀ
33 năm đổi mới trong Văn học Thừa Thiên Huế
NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Một chiều cuối năm 2018, tôi nhận được tấm thiệp mời nhân dịp Lễ mừng tuổi chín mươi của nhà giáo Trần Thân Mỹ và kỷ niệm 65 năm ngày cưới của ông bà Trần Thân Mỹ và Dương Thị Kim Lan. Nếu tính từ mốc tôi được ông đặt bút ký vào hồ sơ chuyển ngành từ Quân đội về làm việc tại Phòng Văn hóa Thông tin (VHTT) thành phố Huế là tròn 35 năm, trong đó có 7 năm (1983 - 1990) tôi được làm việc trực tiếp với ông trước khi ông nghỉ hưu. Ông là vị thủ trưởng khả kính đầu tiên của tôi, là người đã giáo dục, đào tạo và có ảnh hưởng rất lớn đối với tôi.
VŨ SỰ
Ngày xưa, chuyện “chồng già vợ trẻ” cũng là chuyện thường tình. Xứ Huế đầu thế kỷ 20, cũng có những chuyện thường tình như thế. Nhưng trong những chuyện thường tình ấy, cũng có vài chuyện “không thường tình”, ngẫm lại cũng vui.