Một năm thơ Sông Hương

10:35 29/11/2023

THANH THANH

Thật bất ngờ đọc lại một năm thơ Sông Hương dưới trăng rằm mười bốn chạp rồi ngơ ngẩn bấm đốt tay.

Ảnh: internet

Kể từ số Tết Nhâm Thân sang số Tết Quý Dậu, tạp chí đã đăng gần 170 bài thơ. Có cả trang thơ đầu tay, thơ thiếu nhi và thơ dịch. Nếu mỗi tập thơ 30 bài, thì bấy nhiêu thơ một năm Sông Hương xem như đã xuất bản cũng được năm sáu đầu sách thơ.

Cũng theo lối bấm đốt tay dưới trăng khuya, ngạc nhiên sao, chín năm thơ về trước Sông Hương đã đến với bạn đọc thơ cả nước ngút ngát đến gần 1.500 bài thơ. Bao nhiêu bài thơ là bấy nhiêu hồn thơ, giọng thơ... Cũng có đôi năm Sông Hương thẩm chọn, tặng thơ hay.

Đêm nay dưới khuôn trăng đầy đặn năm Thân, nếu chợt nhớ thì nhớ bài thơ "Mẹ và quả" - Nguyễn Khoa Điềm, 1983, "Không ghen" - Thu Châu 1984, "Tạm biệt Huế" - Thu Bồn, 1986!

Năm 1992, một năm thơ Sông Hương, thật mừng có hai chùm trao thưởng. Chùm thơ ba bài của nhà thơ Hoàng Trung Thông - số 6 và chùm thơ ba bài của nàng thơ trẻ, Nhật Lệ - số 2. Ngoài hai chùm thơ ấy ra, có thể người yêu thơ Sông Hương còn nhớ các chùm thơ của nhà thơ Hồng Nhu, nhà thơ Vũ Quần Phương, nhà thơ Ngô Thế Oanh, các chùm thơ của những cây bút trẻ, mới xuất hiện Hồng Hạnh, Đặng Thành... Phải số 2, số 3, và số 6 dồn nhiều bài thơ, và chùm thơ hay, khá.

Thật tình thơ số Tết Nhâm Thân non, nhưng lại được cái tình gặp gỡ nhân khi nổ pháo giao thừa sau một chặng đường Sông Hương gặp đầy thử thách, tự khẳng định, tìm lại dòng chảy chính lưu của một vùng văn học trên từng trang biên tập. Sang số Tết Quý Dậu, gần cả ba chục bài thơ, vừa thơ đầu tay, thơ thiếu nhi thơ dịch.

Chọn bài xuất sắc để 93 trao thưởng thì khó. Nhưng ở từng bài thơ, hồn thơ, giọng thơ chợt có gì phảng phất như dòng Hương Giang, ẩn sâu trong làn nước kinh thành chút chất thơm của loài cây xương bồ. Một loài cây đặc biệt, thơm của trời đất, thơm của đời cây lại chứa chất ở rễ chứ không như muôn cây khác, thơm ở hoa. Thật lạ lùng mà cũng thật tình, yêu Huế cũng được gọi nửa đời người, mà nào đã một lần được thấy xương bồ? Xương bồ ở tận nguồn Hương Giang thơm về kinh thành rồi ra tới biển, có đồng điệu cái huyền ảo khó nắm bắt của thơ...?

Thơ Sông Hương có truyền thống tập họp, gặp gỡ được đủ gương mặt thơ của cả nước. Ngay từ mười số đầu tiên của hai năm 83 - 84 đã có thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Vũ Quần Phương, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Ý Nhi... Và hầu hết các thi sĩ ấy đã từng đến tuyến lửa Quảng Bình những năm 60, 70 vào Quảng Trị giải phóng năm 1972, về Huế sau mùa xuân 1975 đã họp lưu lại thành một dòng thơ kháng chiến chống Mỹ.

Bên cạnh những nhà thơ tên tuổi khắp Trung, Nam, Bắc, lớp thơ trẻ của Bình Trị Thiên có Nguyễn Quang Lập - Nguyễn Quang Lập bước vào làng văn bắt đầu từ bài thơ được giải của báo Tiền Phong, Vĩnh Nguyên, Thái Ngọc San, Trần Huyền Trang, Hải Kỳ, Mai Nguyên, Thiệp Đáng, Lý Hoài Xuân, Trần Hoàng Phố, Phạm Tấn Hầu, Ngô Minh, Nguyễn Khắc Thạch, Đỗ Hoàng, Mỹ Dạ, Lê Thị Mây...

Chút lặng lẽ khơi nguồn thơ sông hương phải kể đến tầm nhìn của cựu Tổng biên tập Nguyễn Khoa Điềm. Vai trò, xu hướng thẩm thơ của anh kể từ trang thơ đầu tiên ở số một được hình thành dần, đến số thứ mười thơ của hai năm 83 - 84 xem như đã tự khẳng định để trưởng thành một vài cây biên tập thơ xuất sắc, biết gọi thơ về sông hương đúng luồng, đúng thi chất của thơ...

Những thi sĩ đã từng đến với trang thơ Sông Hương mười năm trước như người tình đến với mối tình đầu. Một năm thơ qua vẫn gởi hồn bóng mình với Huế. Bây giờ ở bên cạnh những nhà thơ đi trước là một lớp nhà thơ trẻ thứ hai của Sông Hương kể từ sau giải phóng. Lớp thơ trẻ này phần nhiều được trưởng thành trang viết đầu tay, từ câu lạc bộ thơ sinh viên của các trường đại học, từ câu lạc bộ Huế. Đấy là những Hồng Hạnh, Nhật Lệ, Đặng Thành, Thúy Nga, Tôn Nữ Ngọc Hoa, Nguyễn Thị Thái, Phạm Huy Ngữ, Nguyễn Văn Phương, Ngô Cang, Ngô Thiên Thu, Phạm Nguyên Tường, Nguyễn Văn Tánh - Hàn Thi... Lớp trẻ trước có đến dăm mười cây bút bước vào đời thơ từ ngày còn chiến tranh, giờ đã chững chạc trở thành hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Mỗi nhà thơ đã in hai ba tập; đã có hai trong số các tập thơ ấy được giải thường của Hội. Đấy là những Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Ngô Minh, Hoàng Vũ Thuật, Nguyễn Quang Lập, Võ Quê. Nhưng dẫu vậy, không phải bất kỳ nhà thơ nào đã được vào hội, đã được tác giả ghi nhận trưởng thành, lại đều có thể đi được trọn đời thơ. Trong số các anh chị ấy, sau khi chia tỉnh đã về Quảng Bình, Quảng Trị cùng các nhà thơ đàn anh như nhà thơ Xuân Hoàng, Nguyễn Văn Dinh, Hoàng Phủ Ngọc Tường... thơ lại càng duyên nợ nồng thắm với trang thơ Sông Hương...

Thật ra có rất nhiều tác giả in dù một bài trong suốt bảy số bài thơ đó vẫn đọng được trong lòng người đọc nỗi niềm gởi gắm tri âm như "Tổ Quốc" - Từ Quốc Hoài, "Mai em đi họ nội" - Lê Thái Sơn, "Bờ sông và lau lách" - Triều Tâm Ảnh; "Em và con" - Phạm Huy Ngữ; "Qua đèo Hải Vân" - Hữu Kim; "Hẹn về mùa gặt" - Ngô Cang... Đặc biệt chùm thơ 12 bài chọn từ "ngày hội thơ" của mười hai tác giả tên tuổi vừa như để khẳng định lại, vừa như để mở ra một chứng kiến tri âm tri ngộ về thẩm định thơ, bắt đúng hồn cốt tư chất của từng tác giả. Nếu kể, có thể dễ đến sáu bảy chùm thơ khá và hay trong năm. Nhưng nổi trội và gây ấn tượng sửng sốt hơn cả là chùm thơ của Nhật Lệ. Ban biên tập Sông Hương năm nay trao thưởng thơ thật có con mắt xanh. Trong ba bài của Nhật Lệ "Gởi", "Canh bạc", "Cha"... có lẽ bài "Cha" là bài hay nhất. Trong ba bài hay nhất. Nhật Lệ làm chùm thơ này năm hai mươi hai tuổi, đang học năm thứ năm khoa Nga văn trường Đại học Tổng hợp Huế. Nàng thơ có thói quen làm thơ trên nửa trang vở học trò, rồi bỏ quên đâu đó trong các sách vở ở trên bàn, và không mấy khi đưa cho cha mình - nhà thơ Xuân Hoàng - đọc. Các bài thơ rất ít vết sửa xóa, nó được viết lần đầu và rồi rụt rè gởi nguyên vậy. Trao thơ tận tay, gương mặt nàng thơ đỏ ửng như vừa đánh rơi lời tỏ tình, lo sợ đến một khi bị người tình - độc giả - hờ hững rồi quên! Phải chăng thơ khởi thủy không phải viết ra để cho mọi người đọc và càng không phải để in ngay khi mình còn sống. Dùng thơ cầu danh, cầu lợi ở cuộc đời chỉ trong ngày một ngày hai, sẽ làm thơ cụt hứng tàn chết. Còn thơ vì áo cơm thương khó với cuộc đời, vì cuộc đời thì mở trang thơ đã "đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu" để nhận biết được ngay thi chất "hữu xạ tự nhiên hương" của tâm hồn tác giả. Dòng thơ một năm rồi của Sông Hương, phải chăng thơ đã xé dòng chính ngay từ trang biên tập? Nó giản dị nhưng ấm áp gần gũi với đời trong cái tôi của chủ thể sáng tạo. Lặng lẽ bói muồi với từng ý, từng câu, từng khổ, từng bài, từng chùm. Bói muồi được một ý là có thể đứng được một câu. Có bài, hồn cốt ở một câu, một câu chỉ dăm chữ. Một tứ thơ, một bài thơ đôi khi lặng bói muồi nơi cái tình tri âm mộc mạc. Người biên tập phải nhập, phải ấn con mắt xanh vào hồn thơ của tác giả, mới mong thẩm cảm được hương, không dễ mất những bài thơ hay. Ngoài hồn cốt bói chín, bao nhiêu câu chữ còn lại là cành, là lá xây nên vòm thơ. Có thể đấy cũng chính là rễ và cả chính cội cây thơ nữa. Phân biệt được những giới hạn trên thật không dễ. Ở thơ, cái rạch ròi, cái có lý để làm cho thơ xơ chết, nhưng nó lại là nền đứng để cho cái phi lý cái siêu thực gợi mở thăng hoa tài năng. Nếu giả sử, có tác giả chơi trò chơi ngược, lấy cái phi lý, cái siêu thực, cái không chứng kiến lẽ phải làm nền cho bài thơ mình đứng, hồn thơ mình ẩn, đời thơ mình đạt đến vĩnh cửu, hẳn thơ ấy chỉ là một mớ câu chữ của bấn loạn không nên được cành, nhánh, không ươm cắm được một cội cây thơ có thể đem lại hữu ích cho đời. Nếu xáo các chồng thơ lai cảo, các bài thơ kiểu thế không phải ít. Có lẽ người biên tập đã đọc, đã buồn, rồi lặng lẽ cẩn thận để những thơ ấy vào chỗ thơ không đến thơ, không dùng được.

Gần 170 bài thơ trong một năm thơ Sông Hương nếu mạnh dạn chọn in một tập, có lẽ thừa sức có một tập thơ hay, để lại một giá trị, hy vọng được độc giả ghi nhận và đánh giá cao. Theo ý riêng tôi, số Tết Nhâm Thân chọn được 3 bài, số 2 chọn được 8 bài, số 3 chọn được 4 bài, số 4 chọn 4 bài, số 5 chọn được 8 bài, số 6 chọn được 5 bài, số Tết Quý Dậu chọn được 5 bài. Tập thơ 45 bài này thơ chảy thành một phong cách thơ Sông Hương khó lẫn với thơ báo chí khác trong nước ta. Làm điều này chưa tính đến sự đóng góp lớn lao của thành quả cao vời nào khác mà trước tiên là tính đến, chọn lựa đến một nội lực thẩm thơ, lựa chọn thơ, đánh giá thơ ngay trên trang bản thảo của tác giả gửi về tòa soạn. Có tác giả gửi trọn cả một tập vài ba chục bài, nhưng vớt vát lắm mới chọn được một bài. Nếu là tác giả của trang đầu tay đã đành, nhưng bên cạnh không hiếm những tác giả có tên tuổi cũng như vậy. Bên cạnh lại có dăm bảy tác giả gửi ba, bốn bài lại chọn được một chùm đĩnh đạc. Nghe đâu Nhật Lệ gửi 5 bài, lúc đầu người biên tập định giới thiệu cả năm.

Ở đời, cái dễ đạt, dễ được âu rồi trước thử thách thời gian, cũng có thể sẽ dễ tàn, dễ mất. Hẳn các tác giả thơ cũng tự biết mà không vội mừng, cũng không vội nản. Thử ngẩng nhìn trăng mà xem. Tuần trăng ba mươi ba mốt đêm, có đến những mười hai đêm trăng non, trăng chưa đầy và đến mười sáu, mười bảy đêm trăng khuyết. Trăng rằm đếm một, đếm hai đếm ba. Nhưng ai dám thốt lên, những khi trăng non, trăng khuyết, trăng đầy không phải trăng. Hãy thầm cảm hứng trên ba mươi, ba mốt chữ thơ. Hãy in giữa thanh thiên bạch nhật trên ba mươi, ba mốt bài thơ. Hãy lao động trên ba mươi ba mốt tập thơ. Thơ của một đời người, thơ của một năm thơ Sông Hương.

Rằm tháng Chạp Nhâm Thân
T.T
(TCSH56/07&8-1993)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Cuối năm 1961, tôi rời Vụ Báo chí Bộ Ngoại giao về làm biên tập viên chương trình Tiếng thơ Đài Tiếng nói Việt Nam. Chương trình này nằm trong Phòng Văn học do nhà văn Trọng Hứa làm Trưởng phòng.

  • KIMO

    Mười Cents, một đồng xu nhỏ nhất, mỏng nhất được gọi là “dime” và đồng xu nầy được đúc với chất liệu 90 phần trăm bạc và 10 phần trăm đồng như đồng xu năm cents và 25 cents nhưng lại khác với đồng xu một cent.

  • HƯỚNG TỚI 70 NĂM THÀNH LẬP LIÊN HIỆP CÁC HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ

    TÔ NHUẬN VỸ

  • HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY THÀNH LẬP LIÊN HIỆP CÁC HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ

    NGUYỄN KHẮC PHÊ

  • KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ

    NGÔ KHA

    LTS: Dưới đây là một ghi chép của cố nhà báo, nhà nghiên cứu lịch sử Ngô Kha về những ngày đầu đoàn quân giải phóng về thành Huế dịp 26/3/1975. Rất ngắn gọn, song đoạn ghi chép đã gợi lại cho chúng ta không khí sôi nổi, nô nức những ngày đầu.

  • Lời nói đầu: Mỗi khi về nhà ở Quỳnh Mai, tôi luôn hình dung thấy Cha tôi đang ngồi đâu đó quanh bàn làm việc của mình. Trong một lần về nhà gần đây, sau khi thắp hương cho Cha, chờ hương tàn bèn mang máy đánh chữ, là vật hết sức gần gũi đã gắn bó với Cha tôi cho tới khi mất, để lau chùi, làm vệ sinh.

  • Những năm 1973-1976, đến Paris  tôi bắt đầu công việc sinh viên, vừa làm vừa học là ký tên và đánh số giùm tranh litho cho  Họa sĩ Lê Bá Đảng.

  • SƠN TÙNG  

    Một ngày giáp Tết Canh Dần - tháng 2/1950, gặp dịp đi qua làng Sen, tôi ghé vào thăm nơi đã lưu lại những kỷ niệm tuổi thơ của Người.

  • L.T.S: Vương Đình Quang nguyên là thư ký tòa soạn báo "Tiếng Dân" do Huỳnh Thúc Kháng làm chủ biên, vừa là thư ký riêng của nhà yêu nước Phan Bội Châu, chuyên giúp Phan Bội Châu hoàn chỉnh những văn bản tiếng Việt trong mười lăm năm cuối đời sống và sáng tác tại Huế. Bài này trích từ "Hồi ký về cụ Phan và cụ Huỳnh" do chính tác giả viết tại quê hương Nam Đàn Nghệ Tĩnh khi tác giả vừa tròn 80 tuổi (1987).

  • NGUYỄN NGUYÊN

    Tháng 6-1966, ở Sài Gòn, giữa cái rừng báo chí mấy chục tờ báo hằng ngày, báo tháng, báo tuần, bỗng mọc thêm một từ bán nguyệt san: Tin Văn.

  • Cứ vào những ngày cuối năm, khi làm báo tết, trong câu chuyện cà phê sáng, làng báo Sài Gòn hay nhắc đến họa sĩ Choé, tác giả những bức tranh biếm - hí họa từng không thể thiếu trên khắp các mặt báo. Có thể nói, cùng với nhà văn Sơn Nam, nhà thơ Bùi Giáng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, họa sĩ Ớt - Huỳnh Bá Thành, danh ca Út Trà Ôn, danh hài Văn Hường,… họa sĩ tuổi Mùi - Choé là một trong những “quái kiệt” của Sài Gòn.


  • (Lược thuật những hoạt động nhân kỷ niệm 5 năm Sông Hương)

  • (Bài phát biểu của nhà văn Tô Nhuận Vỹ - Nguyên Tổng biên tập tạp chí Sông Hương trong lễ kỷ niệm 5 năm)

  •  (SHO). Huế đầu đông. Mưa lâm thâm,dai dẳng. Mưa kéo theo các cơn lạnh se lòng. Cái lạnh không đậm đà như miền Bắc không đột ngột như miền Nam, nó âm thầm âm thầm đủ để làm xao xuyến  nổi lòng người xa quê... Ngồi một mình trong phòng trọ, con chợt nhớ, một mùa mưa, xa rồi...

  • (SHO). Mùa mưa cứ thế đến, những nỗi nhớ trong tôi lại từng cái từng cái ùa về, thổi qua và tôi chợt nhận ra trong lúc ngây ngốc tôi đã bỏ quên nhiều thứ như vây; bỏ quên những người thân yêu trong nỗi nhớ của tôi, ở trong kỉ niệm đã qua và giờ tôi nhớ ra cảm giác hạnh phúc, vui vẻ khi ở bên họ, để từ đó tôi quý trọng hơn nữa những giây phút bên cạnh những người mà tôi yêu thương.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Sau một thời gian bị bệnh hiểm nghèo, ca sĩ Hà Thanh đã qua đời vào lúc 19 giờ 30 ngày 1 tháng 1 năm 2014 (giờ Boston) tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ.

  • ĐẶNG VĂN NGỮ
                    Hồi ký

    Cha tôi lúc còn nhỏ tự học chữ nho có tiếng là giỏi, nhưng đến tuổi đi thi thì thực dân Pháp đã bãi bỏ các kỳ thi chữ nho.

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Lớp sinh viên chúng tôi tốt nghiệp Khoa Văn - Sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, đúng vào thời điểm Mỹ đánh phá miền Bắc và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam kêu gọi con em miền Nam đang ở miền Bắc hãy trở về chiến đấu cho quê hương.

  • Giải phóng quân Huế với phong trào Nam tiến 

    PHẠM HỮU THU

  • Sau ba năm đi giang hồ Trung Quốc. Nguyễn Du trở về, ở tại Thăng Long từ cuối năm 1790 cho đến năm 1794. Đó là ba năm «Chữ tình chốc đã ba năm vẹn», lưu lại trong Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương.