Một chút sau nửa đêm

09:48 18/03/2021


HISHAM BUSTANI

Nhà văn Hisham Bustani

    Hisham Bustani sinh tại Amman, Jordan, đã xuất bản 4 tập truyện ngắn. Nổi tiếng về các chủ đề đương đại, phong cách, và ngôn ngữ, ông được cho là “đưa một làn sóng mới của chủ nghĩa siêu thực vào văn học Ả Rập, vốn đã lỡ mất phong trào siêu thực từ thế kỷ trước”. Tác phẩm của Bustani đã được dịch sang năm thứ tiếng, với các bản dịch Anh ngữ xuất hiện trong những tạp chí danh tiếng khắp Hoa Kỳ, Anh, và Canada. Ông được tạp chí The Culture Tríp, là tạp chí xuất bản qua mạng internet tại Vương quốc Liên hiệp Anh vinh danh là một trong sáu nhà văn đương đại hàng đầu ở Jordan. Tập truyện thứ ba của ông, The Perception of Meaning - Nhận thức về Ý nghĩa, được giải thưởng University of Arkansas Arabic Translation.
    Dưới đây là một truyện ngắn rất “siêu thực” của ông, được Thoraya El-Rayyes dịch từ tiếng Ả Rập sang tiếng Anh.


Một chút sau nửa đêm


Một điếu thuốc đã tắt được kẹp hờ giữa hai ngón tay tôi. Tôi không biết ai đã đặt nó vào đó, nhưng tôi cảm thấy những con sâu cựa quậy bên trong nó. Khi nhìn chúng tôi nghĩ là tôi đã thấy chúng trước đây, mười cơ thể nhỏ bé - giống hệt nhau, không có đặc điểm gì.

Điếu thuốc lá là một con sâu lớn đang ăn và ợ ra những con sâu nhỏ hơn bên trong nó. Chúng trôi tuột vào miệng tôi, lấp đầy phổi tôi, và sau một bữa tiệc ồn ào ngắn ngủi ở đó, chúng bắt đầu lưu chuyển theo dòng máu của tôi.

Tôi không biết tại sao tôi cảm thấy buộc phải nhảy xuống từ cửa sổ tầng ba. Tôi không biết thân cây ngáng đường tôi rơi xuống từ đâu ra. Và tôi không biết điều gì làm người hàng xóm của tôi lại ra ngoài để phơi quần áo vào lúc tôi rơi. Tôi không biết tại sao tôi tưởng tượng rằng tôi chết khi tôi đổ ập xuống mặt đất. Tôi hạnh phúc ngay lúc đổ ập đó; tôi nhắm chặt mắt và trôi vào một cõi dễ chịu như một giấc ngủ ngon.

Chỉ mất chút ít thời gian cho tới khi tôi nghe tiếng người hàng xóm hét lên và nhận ra có điều gì đó không đúng. Tôi thật sự đã không chết; tôi vẫn còn nghe tiếng còi xe qua lại trên đường.

Khi tôi đứng lên phủi bụi đất bám trên quần áo, đám đông vây quanh tôi giật mình lùi lại. Có lẽ tôi làm họ sợ. Tôi nghe một người trong số họ nói với một người khác, với giọng nói sợ hãi: “Có những con sâu bò ra từ mũi của anh ta.”

“Chúng không bò ra,” tôi sửa lại: “chúng đang tràn ra.” Tôi bỏ đám người lại ở đó và đi lên căn hộ của tôi.

*

“Mày là đồ đáng ghét.”

Đó là câu hắn nói, cái thằng người đang đứng trong tấm gương đó.

Anh muốn hắn hét lên. Anh muốn hắn vả vào mặt anh. Anh muốn hắn nhổ vào mặt anh. Nhưng “mày là đồ đáng ghét” là tất cả những gì anh có được từ hắn, lúc này đang đứng cứng ngắc, nhìn anh với bộ mặt đông cứng.

Vào lúc anh quyết định đánh hắn để rồi anh sẽ nói một điều gì, thì gã đàn ông trong gương đã không còn nữa. Và khi anh rút nắm đấm về, nắm tay bắt đầu tràn ra những con sâu, anh trực diện với mười cái đầu nhỏ giống hệt nhau.

“Mày là đồ đáng ghét,” tất cả chúng nói, và bắt đầu nhìn anh với những bộ mặt đông cứng.

*

Và anh cứ gặp những cơn ác mộng. Một mảnh vụn - mỗi lần là một trong những mảnh vụn của gương mặt bị đập rạn vỡ đó.

Một mảnh trán. Một phần con mắt. Một bên cằm. Một phía mũi.

Sau đó anh sẽ hoảng sợ tỉnh dậy. Anh cố ghi lại hình ảnh của mảnh vụn đó lên vải toan, để ghép nó với hình ảnh của những mảnh vụn trước đó. Hy vọng anh có thể lắp ráp được một bức tranh về con người anh đã từng thấy trong gương. Nhưng tay anh dừng - tự nó dừng - khi mới xong được nửa chừng; bức tranh cứ tồn tại theo cách đó, thiếu mất nửa kia.

Anh bắt đầu cố gắng không thức dậy từ những cơn ác mộng nữa - tưởng tượng! Anh sẽ tự nhủ: Chưa được, hãy kiên nhẫn, đừng mở mắt ra, có thể còn nhiều mảnh nữa sẽ cùng đến. Anh vặn bàn tay đang cố bóp cổ anh, anh bấm móng tay vào những bức tường của cái hố anh đang rơi vào. Hy vọng trạng thái kinh hoàng này kéo dài đủ lâu để gương mặt sẽ trở nên trọn vẹn… nhưng…

Nhưng mỗi lần anh thức dậy thì những mảnh rời rạc cần phải lắp ráp đã không cùng đến, vậy là anh thức dậy - ướt sũng mồ hôi - để chép những phần còn giữ được trong ký ức lên vải toan.

*

Tôi thức dậy và đi trong xưởng vẽ của mình. Tôi thấy những bức tranh chưa vẽ xong của tôi đã hoàn tất; những gương mặt của chúng đang nói với tôi. Tôi nhìn những khung vải toan trống trơn của tôi tự tô phết màu cho chúng và khệnh khạng đi quanh. Trên đi văng, tôi thấy Monica Bellucci(1). Tôi ngồi sát bên nàng, vò tóc nàng, và âu yếm nàng mãnh liệt.

Có tiếng ồn ào bên ngoài. Tôi đi ra, thẳng tới cao ốc đối diện với cao ốc tôi ở: Trên mái tòa cao ốc, một số thiếu niên vừa qua xong kỳ thi đang tổ chức một buổi tiệc. Tiếp theo đó ông sĩ quan quân đội về hưu sống gần đó ngắt cầu chì điện, và chúng say xỉn dò dẫm xuống cầu thang từng đứa một. Sự phản đối của những người hàng xóm tức tối đã hết, tôi quay lại căn hộ của mình, phấn chấn với tiếng nhạc đã biến thành im lặng.

Những khung toan của tôi lại không có màu sắc gì nữa. Về nàng Monica Bellucci, nàng là một bức ảnh in trên bìa của một tờ tạp chí nằm trên bàn. Có một người khác ngồi trên đi văng thay vì nàng: chứng mất ngủ.

*
 


Minh họa: ĐẶNG MẬU TỰU

Khi anh mở mắt vào buổi sáng, bức tường không còn ở chỗ của nó. Thay vì bức tường, lại là một vùng sáng lan tỏa từ một nguồn sáng ở xa - nhạt, lạnh, mờ đục. Thoạt tiên anh nghi ngờ chính mình và nhìn kỹ hơn, nhưng không có gì thay đổi. Anh lấy cặp kính lên - cặp mắt kính luôn để trên chiếc bàn bên cạnh giường và đeo vào - nhưng cũng không có gì thay đổi. Anh ngoái đầu nhìn những bức tường kia và không nhìn thấy chúng. Anh cảm thấy một nỗi sợ hãi làm anh chết điếng trong giường vài phút, rồi anh quyết định chui ra khỏi tấm mền để xem xét.

Có lẽ mình nên bật đèn lên để nhìn thấy rõ hơn. Nhưng công tắc đèn thì ở trên tường, mà tường thì không còn ở nơi nó phải ở nữa.

Mình sẽ hít chút ít không khí trong lành để tỉnh táo. Nhưng cửa sổ thì ở trên tường, mà tường thì không còn ở nơi nó phải ở nữa.

Một tách cà phê sẽ giúp mình tập trung hơn. Nhưng để vào nhà bếp thì phải đi qua khung cửa nhà bếp, và cửa thì ở trên tường, và bức tường - như đã biết - không còn ở nơi nó phải ở nữa.

Về phần tấm gương rạn nứt, nó lơ lửng ở chỗ cũ, như thể đang bềnh bồng. Nhìn ra từ những mảnh rạn của nó là mười cái đầu nhỏ giống hệt nhau, nhìn anh với những khuôn mặt đông cứng.

*

Bất chấp những nỗ lực liên tục của tôi, bất chấp sự kiên trì bơi vượt những gì tôi tưởng tượng để trồi lên, tôi không tìm thấy mặt nước. Tôi không cảm thấy ngạt thở như tôi chờ đợi; cứ như thể phổi tôi đã đột ngột chuyển thành mang cá. Như thể tôi đã trở thành một con cá.

Trong trạng thái lạ lùng đó, tôi bắt đầu bơi và thấy bềnh bồng trên đường bơi của tôi nhiều thứ tôi đã mất trước đây. Tôi gặp những người tình đã bỏ tôi; tôi gặp mẹ tôi, người đã chết khi sinh tôi; tôi gặp những họa sĩ thường hay nói xấu tôi; tôi gặp Nietzsche(2), hai tay ôm đầu, đôi lông mày nhúc nhích như một anh hề.

Khi tôi bơi mệt, tôi cuộn mình lại như một bào thai, và rồi…

Rồi tôi nghe tiếng hét của người hàng xóm, tiếng còi xe, và cảm thấy một đám đông người tụ tập quanh tôi.

*

Anh bắt đầu cảm thấy một sức ép mãnh liệt. Chất lỏng ép lên anh từ mọi hướng, cho tới khi một sự co thắt đột ngột giải phóng sức ép, và anh tự mình cảm thấy đang rơi nhanh. Anh bị lôi bằng chân và treo lửng lơ trong không khí, rồi đến một cú đấm đau đớn vào lưng - thế là anh hít lấy hơi thở đầu tiên và hét lên. Khi anh mở mắt ra lần đầu tiên, những bức tường đã hiện diện trở lại ở chỗ của chúng, nhưng không có những công tắc đèn, không có cửa lớn, không cửa sổ. Chúng chỉ được trang trí bằng một tấm gương rạn vỡ nhiều mảnh, và từ những mảnh rạn mười khuôn mặt giống hệt nhau nhìn anh với vẻ mặt đông cứng.

*

Lần thứ hai, anh cảm thấy bóng đèn điện tròn treo từ trần đập vào mũi anh.

Lần thứ ba, anh nghe tiếng chó sủa. Lần thứ tư, anh thấy cái giường của anh lật ngược và, từ trên giường, anh nhìn nền nhà phía dưới. “Mình đã không hút bụi khá lâu rồi,” anh nói, khi thấy bụi đất lớp lớp ở chỗ để cái giường.

Lần thứ năm, một con công đi ngang qua, nhìn anh, xòe đuôi, rồi khép đuôi và tiếp tục đi.

Lần thứ sáu, một thành phố xa xăm đang cháy ở chân trời.

Khi anh nhắm mắt lại lần thứ bảy rồi mở mắt ra, anh thấy một điếu thuốc lá kẹp hờ giữa hai ngón tay và cảm thấy những con sâu di chuyển bên trong điếu thuốc. Bất chợt, anh quyết định đốt thuốc, và sau khi hút vài hơi - do thói quen chứ không vì gì cả - anh đi lại cửa sổ và nhảy.

Vào lúc đó, một mảnh rạn của tấm gương mà anh đã đấm trước đó nứt thành hai phần, và một gương mặt khác xuất hiện.

Võ Hoàng Minh dịch
(Từ “A few moments after midnight”)
Nguồn: http://lithub.com/a-few-moments-after-midnight/
(TCSH384/02-2021)

--------------------
(1) Monica Bellucci: sinh năm 1964, là nữ diễn viên và người mẫu Ý. Bellucci bắt đầu sự nghiệp của nàng với nghề  người mẫu rồi chuyển sang đóng phim. (Chú thích của người dịch).
(2) Friedrich Wilhelm Nietzsche, triết gia người Đức, 1844 - 1900. (Chú thích của người dịch).   





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.

  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.

  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.

  • YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.

  • KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.