Một chiều kích khác của Bakhtin

14:14 17/04/2020

ĐỖ LAI THÚY  

M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…

Ảnh: internet

Tuy nhiên, Bakhtin không chỉ là nhà phê bình văn học. Nhưng ở Việt Nam, người ta chỉ biết đến hoặc chỉ tiếp nhận có mỗi chiều kích này, nên đã vô hình trung thu hẹp tầm cỡ của ông, kể cả như một nhà phê bình. Thực chất Bakhtin là một nhà triết học, một nhà triết học nhân văn. Triết học nhân văn không sa đà vào tư duy tư biện, từ ý niệm đến với ý niệm, mà ngược lại, từ cuộc sống đến với ý niệm rồi trở về cuộc sống. Một cuộc sống trong văn học và được diễn giải từ tầm nhìn triết học.

Là người trưởng thành vào cuối thế kỷ XIX đầu XX, khi mà, như nhà nghiên cứu các nền văn minh thế giới nổi tiếng W. Durant nói, đỉnh sóng của văn minh nhân loại về đậu ở nước Nga, Bakhtin đã hấp thụ được một học vấn toàn diện và sâu sắc, nhất là nền triết học tôn giáo, đặc sản của dân tộc Nga tiêu biểu là Soloviev. Rồi Cách mạng Tháng Mười tạo ra cho văn hóa Nga một đứt gãy từ gốc rễ. Rồi bản thân ông bị đi lao động khổ sai như phần lớn trí thức bấy giờ và khi được tha thì lại bị đẩy về sống ở một tỉnh lẻ xa các trung tâm học thuật. Trải nghiệm xã hội và cá nhân ấy mài sắc thêm những cảm nhận ở Bakhtin về các vấn đề thời cuộc và con người.

Có điều những vấn đề ấy được Bakhtin nhìn từ một góc nhìn triết học. Rồi lại được ông trình bày như là những vấn đề thuần túy của văn học một cách vô thưởng vô phạt. Đấy là dụng tâm sâu kín của một nhà triết học nhân văn phải sống ở thời buổi luôn bị kiểm soát cả trong ý nghĩ. Tuy không giấu được cặp mắt kiểm duyệt của chính quyền Xô viết và giới tri thức tinh hoa phương Tây, nhưng nó cũng qua mặt được nhiều kẻ ngây thơ, hay cố ý làm ra vẻ ngây thơ. Và Bakhtin trở thành một nhà phê bình văn học bậc nhất của thế kỷ XX trên thế giới. Ở đây, trong bài viết nhỏ này, tôi chỉ nêu ra hai luận điểm của Bakhtin về tiểu thuyết, một thể loại của Thời Đại Mới rất phù hợp với việc triển khai các triết luận của ông, qua sáng tác của hai nhà văn: Dostoievski - Nga và Rabelais - Pháp.

Với Dostoievski (Đốt), đó là nguyên lý đối thoại. Nghiên cứu sáng tác của nhà văn này, Bakhtin thấy tính đối thoại diễn ra ở mọi cấp độ, từ vi đến vĩ. Đối thoại là thuộc tính của lời, của diễn ngôn, của nhân vật, của tư tưởng. Tiểu thuyết của Đốt, do vậy, là một cuộc đối thoại không khoan nhượng và không bao giờ ngừng nghỉ. Mỗi nhân vật của ông hoặc là đều có một kẻ song trùng hoặc là tự lưỡng phân thành hai con người để quyết đấu, bởi con người, theo ông quan niệm, đều “không trùng khít với bản thân mình” và “trong con người còn có một con người.” Đúng như nhà thơ Pháp, A. Rimbaud viết: “Ta là một người khác.” Đây là cơ sở để Bakhtin tuyên xưng với thế giới sự ra đời của một loại hình tiểu thuyết mới, do Dostoievski khởi xướng, tiểu thuyết đa âm.

Như vậy, đối thoại từ một thuật ngữ ngữ học trở thành nguyên lý đối thoại, một thuật ngữ triết mỹ. Bakhtin đã thay đổi căn bản nội hàm của nó. Ông cho rằng trên đời này không làm gì có chân lý có sẵn, mà chỉ có chân lý được hình thành qua bằng đối thoại. Thậm chí, đối thoại tàn, ấy là nói vậy chứ đối thoại không bao giờ kết thúc, thì chân lý cũng không còn nữa hoặc trở thành chân lý tương đối, chân lý trường hợp. Đối thoại, đã phá vỡ độc thoại, vốn là diễn ngôn độc đoán của các nhóm quyền uy trong mọi xã hội, nhất là xã hội toàn trị. Thứ diễn ngôn đã đẻ ra tòa án dị giáo ở châu Âu trung đại và văn tự ngục ở Đông Á cận hiện đại. Đối thoại của Bakhtin, vì thế, trở thành một “vũ khí lý luận” chứ không phải “lý luận bằng vũ khí” (từ của K. Marx) nhằm chống mọi thứ độc tài, bảo vệ dân chủ, tự do. Đối thoại cũng gạt ra ngoài bản thân nó những nhập nhằng của các cuộc bàn cãi, tranh luận, khi mà người tham gia đã cầm sẵn trên tay một chân lý có sẵn và tin rằng chân lý ấy là duy nhất đúng, và, do đó, cuộc tranh luận thực chất là biến thành cuộc tranh giành phần thắng về mình bất chấp thủ đoạn. Và, xin nói thêm, các lý thuyết liên văn bản của R. Barthes - J. Kristéva, liên chủ thể diễn ngôn của M. Foucault đều phát triển trên nền tảng triết học của nguyên lý đối thoại của Bakhtin.

Với Rabelais, đó là nguyên lý carnaval. Cuộc vận động dân chủ của nhân/ dân gian suốt từ thời Trung cổ đến Phục hưng thì đạt đến đỉnh cao. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các lễ hội carnaval. Lễ hội này là thời gian nằm ngoài thời gian, là đời sống nằm ngoài đời sống. Nó đầy ắp vui nhộn, đầy ắp tiếng cười, bởi sự đảo lộn trật tự của đời sống chính thức và chính thống. Cái gì trên thì xuống dưới, cái gì dưới thì lên trên; cái gì trong thì ra ngoài, cái gì ngoài thì vào trong; cái gì chính thức thì trở thành phi chính thức; thằng hề hóa ra là ông vua, ông vua lại trở thành thằng hề. Lễ hội carnaval cứ thế xoay vòng, cứ thế chuyển động, cứ thế chết đi và cứ thế sinh nở. Mọi thứ trong lễ hội carnaval đều mang tính lưỡng trị, tính nước đôi như bà già mang thai chẳng hạn. Như vậy mọi cái trong lễ hội đều đang trở thành, không có gì là thuần nhất, không có gì là hoàn kết cả.

Bộ tiểu thuyết Gargantua và Pantagruel của Rabelais thực sự là một lễ hội carnaval lớn. Nhà văn viết về cuộc đời của hai nhân vật khổng lồ là Gargantua - cha và Pantagruel - con. Cuộc đời họ đầy những nghịch dị như sinh ra từ lỗ tai, uống sữa của 4.600 con bò mới đủ no, sau này lớn lên học hành, đi du lịch, đánh giặc, bài tiết, làm tình, gây nên những chuyện kinh thiên động địa. Hành vi của xúc phạm đến nhà thờ, nhà nước, trật tự xã hội với tính cách là những gì chính thức và chính thống đối trọng với dân gian, để tạo ra tiếng cười. Một tiếng cười carnaval có tính lưỡng trị vừa khẳng định vừa phủ định, không nhằm thủ tiêu đối tượng, mà muốn đối tượng thay đổi để củng cố cộng đồng văn hóa. Rabelais đề cao tính cộng đồng để phê phán tính nhất phiến của thời đại cá nhân chủ nghĩa.

Từ sáng tác của Rabelais, nguyên lý carnaval còn là chìa khóa tìm ra và mở vào mảng văn học bị/được carnaval hóa. Bakhtin tin rằng mảng văn học này tồn tại ở mọi nền văn học như một hiện tượng văn hóa phổ biến. Cứ ở đâu có sự thống trị của nền văn học chính thống độc đoán thì ở đó có văn học carnaval hóa. Như ở Việt Nam, thời cuối Lê đầu Nguyễn đã xuất hiện thơ Hồ Xuân Hương, như một lễ hội phồn thực. Còn đầu những năm 30 thế kỷ XX là tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Nếu coi Số đỏ như một tiểu thuyết đả kích sự đô thị hóa, sự Âu hóa thì tác giả là một người bảo thủ, còn coi Số đỏ như một tác phẩm carnaval hóa thì giá trị của nó sẽ khác. Nguyên lý carnaval mang đến cho tác phẩm một cái nhìn nghệ thuật mới.

Như vậy, nghiên cứu sáng tác của Dostoievski và Rabelais từ hai nguyên lý đối thoại và carnaval, Bakhtin không những chỉ ra được những đặc sắc nghệ thuật ở họ, mà, quan trọng hơn, phát hiện được những điểm yếu ở hai nền văn hóa của hai nhà văn này. Văn hóa Nga thiếu sự phát triển của ý thức cá nhân, của con người cá nhân, còn văn hóa Pháp thiếu hoặc đã đánh mất sự phát triển của tinh thần cộng đồng. Đây là hai chiều kích cơ bản của mỗi con người, mỗi dân tộc và cả nhân loại, mà thiếu một thì sẽ gây ra hiện tượng què quặt không hạnh phúc được. Lời cảnh báo này của Bakhtin không chỉ với đồng bào của Đốt hoặc của Rabelais, mà cho mọi dân tộc, không chỉ với người đương thời của ông, mà còn cho với người mọi thời.

Chính nhà triết học nhân văn Bakhtin đã làm nên nhà phê bình văn học Bakhtin. Một nhà phê bình văn học kiểu mới. Ông không áp dụng một lý thuyết có trước/sẵn nào đó, mà là sáng tạo ra một lý thuyết mới qua phân tích tác phẩm. Trước hết, Bakhtin trở thành một nhà lý luận gia về tiểu thuyết. Bằng việc đối lập giữa sử thi tiểu thuyết, ông chẳng những khu biệt được sử thi, một thể loại đã ổn định, mà còn cả tiểu thuyết, một sản phẩm của Thời Đại Mới đang còn hình thành và/nên có khả năng duy nạp vào bản thân nó những thể loại khác. Nhưng điều này, chí ít ở Việt Nam, không cho phép hiểu thuật ngữ tiểu thuyết sử thi như sự duy hòa hai thể loại, mà sử thi ở đây không có nghĩa là thể loại mà có nghĩa là có quy mô lớn, là hoành tráng. Còn muốn nói đến sự dung hòa thể loại thì phải là tiểu thuyết [bị] sử thi hóa. Đó là các tiểu thuyết ra đời trong chiến tranh nhiều chất sử thi ít chất tiểu thuyết. Một sự tha hóa thể loại.

Bakhtin cũng là một trong những nhà phê bình đầu tiên nhìn các hiện tượng văn học từ văn hóa, đúng hơn từ văn hóa học. Do vậy mà ông phát hiện ra lễ hội carnaval để từ đó đề xuất nguyên lý carnaval. A. Gurevits, tác giả cuốn Những phạm trù văn hóa trung cổ (Giáo dục, 1996, Hoàng Ngọc Hiến dịch) cho rằng ở thời trung đại của châu Âu lý thuyết nghịch dị thì có thể chấp nhận được, nhưng lễ hội carnaval thì rất mờ nhạt nên có lẽ Bakhtin đã thổi phồng lên. Một nhà phê bình văn học Nga khác cũng coi những tác phẩm nghiên cứu của Bakhtin là một thế giới kiến tạo: Bakhtin là một nhà văn thì đúng hơn là nhà phê bình. Có thể hiểu được ý kiến này, bởi một nhà phê bình sáng tạo, nhất lại là một triết gia nhân văn, với tư cách là người phát minh chứ không chỉ phát hiện, có quyền kiến tạo một thực tại xã hội, một thực tại văn hóa phù hợp để làm sống cho lý luận của mình. Bakhtin là một nhà phê bình như vậy.

Hiện nay, các nhà phê bình văn học Việt Nam đang cố gắng thoát khỏi sự “cầm tù của văn bản” để đi ra với đời sống, thoát khỏi vị thế “đặc tuyển,” rời bỏ “tháp ngà” để đi vào đời sống. Từ lối tiếp cận nội quan, họ đến với lối tiếp cận nội-ngoại quan. Tức từ những thành tựu nghệ thuật của/ở tác phẩm mới phát hiện ra được quy dẫn đến những vấn đề văn hóa, xã hội. Có như vậy thì các vấn đề này mới không phải là vấn đề được mớm trước, mà là của riêng nhà văn: Mà hiện nay, trong bối cảnh liên/xuyên văn hóa, đó chính là những vấn đề căn bản, cấp thiết của Việt Nam học. Bakhtin, một lần nữa, lại dẫn đường cho chúng ta.

Đ.L.T  
(TCSH373/03-2020)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...

  • ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.

  • BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...

  • NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

  • PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG    Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.

  • PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...

  • Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.

  • TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.

  • KEVIN BOWEN
    (Giám đốc WJC)

    LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.

  • NGUYỄN BÁ CHUNG

    Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

  • VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.

  • NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).

  • PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.