Một câu đối cổ ở Quảng Nam liên quan đến làng Gia Hội - Huế

08:44 04/11/2009
PHAN XUÂN QUANGĐồng Tranh là một làng nổi tiếng trù phú một thời ở Quảng Nam. Làng này hiện còn lưu truyền một câu đối cổ có liên quan đến làng Gia Hội, Huế:Văn Đồng Tranh, võ Đồng Tranh, văn võ Đồng Tranh long hổ bảngQuân Gia Hội, thần Gia Hội, quân thần Gia Hội phụng hoàng trì.Câu đối này còn một số dị Bản, có khác một đôi chữ nhưng câu trên đây theo nhiều người là chính nhất và phổ biến hơn cả.

Cái tài của vế thứ nhất có nhiều điệp từ đồng âm dị nghĩa. Cái hay của vế đối đã nói lên được nhân tài ở đây đều hướng tới long hổ bảng (cái bảng ghi tên những người đồ đạt cao trong thi cử dưới thời phong kiến, bên long dành cho người có tài văn, bên hổ dành cho những người giỏi võ). Vế thứ hai được đối quá chỉnh, vua đối với văn, quân đối võ, Đồng Tranh đối với Gia Hội. Hai chữ Đồng Tranh ở vế thứ nhất vừa là danh từ riêng chỉ địa danh nhưng cũng là động từ chỉ sự tranh đua. Hai chữ Gia Hội cũng là danh từ chỉ đại danh (tên cũ của một làng nay thuộc thành phố Huế) nhưng cũng là động từ chỉ sự hội họp lại. Cả hai chữ Đồng Tranh và Gia Hội cũng toát luôn cái thần của vế thách và vế đối nhằm phụng hoàng trì.

Vậy câu đối trên ra đời trong hoàn cảnh nào và ai là tác giả? Trả lời câu hỏi này hiện có 3 nguồn tư liệu:

Nguồn tư liệu thứ nhất là bài viết về đối của anh hàng chiếu (Tập san Văn Hóa mới của Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng cũ, 1987) và bài Mượn văn chương làm duyên ứng nghĩa (báo Đà Nẵng cuối tuần, ra ngày 25/10/1998). Có thể tóm lược nội dung nguồn tư liệu này như sau: Sau khi xây dựng xong đình làng, các bô lão, các vị có học ở làng Đồng Tranh đã tâm đắc xướng lên một vế thách: văn Đồng Tranh, võ Đồng Tranh, văn võ Đồng Tranh long hổ bảng. Thời gian qua đi, đã nhiều người kể cả trong và ngoài làng đua tài nhưng chưa có được vế đối thật chỉnh để trình làng. Bỗng một hôm có anh hàng chiếu đi qua xin gặp các bô lão để trình làng vế đối. Vế đối của anh hàng chiếu: Quân Gia Hội, thần Gia Hội, quân thần Gia Hội phụng hoàng trì. Các vị bô lão trong làng thán phục và bày tiệc khoản đãi. Anh hàng chiếu tự giới thiệu mình là Hường Hiệu, vừa từ quan ở Huế, nay vâng thánh chỉ của vua Hàm Nghi, mượn vế đối này để mở đầu cho việc phò Vua, chống giặc Lang Sa cứu nước.(1)

Còn nguồn tư liệu thứ hai là Tú Quỳ văn chương và giai thoại của Phan Phụng, được nhà xuất bản Đà Nẵng in năm 1982. Theo tác giả, Tú Quỳ (một danh sĩ Quảng Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX) trong một chuyến đi xa, khi vào đến xứ Đồng Tranh, gặp lúc các sĩ tử ở đây đang sửa soạn khăn gói, lều chõng để lên đường ra kinh đô ứng thí. Để thử tài Tú Quỳ, nhân một cuộc gặp mặt các nhà khoa bảng trong vùng, một vị đã đưa cho ông vế thách và ông đã đối lại, chỉ khác chữ cuối của vế đối đã dẫn, chữ hoàng trì được thay bằng hoàng cơ.

Nguồn tư liệu thứ ba là tập Tú Quỳ - Danh sĩ - Quảng Nam của Thy Hảo, được NXB Đà Nẵng xuất bản năm 1993. Phần liên quan đến câu đối được trình bày từ trang 179 đến 184. Nội dung câu đối thì giống với hai tài liệu trên, nhưng xuất xứ và tác giả của câu đối lại khác. Chuyện như sau: nhân một buổi đi thăm người bạn ở phủ Thăng (tức Thăng Bình), Tú Quỳ đi ngang qua ngôi đình làng Đồng Tranh đã xây dựng xong 4 tháng nhưng chưa khánh thành. Hỏi ra, Tú Quỳ biết làng phải chờ vế đối của một vị quan là người của làng mà vị quan này mới làm được một vế, còn vế thứ hai chưa nghĩ ra. Câu đối này làng xin vị quan đó đề khắc lên 2 trụ cột ở căn trung cho toàn thiện ngôi đình. Tú Quỳ nghe chuyện cũng lúc quá trưa, trời nắng gắt, nên tạm ngồi dưới gốc đa trước đình nghỉ mát. Bỗng có gã bán chiếu gánh một gánh chiếu nặng tiến đến gốc đa cùng nghỉ. Tú Quỳ hỏi chuyện và nhận bàn giúp gánh chiếu. Tú Quỳ đặt gánh chiếu giữa sân đình để lấy cớ gặp làng. Kết quả, Tú Quỳ giúp làng giải được vế đối và làng cùng mua gánh chiếu của anh hàng chiếu để lo lễ khánh thành.

Qua 3 nguồn tư liệu trên, chúng ta thấy ở mỗi nguồn tư liệu có một vài chi tiết khác nhau về tác giả và hoàn cảnh xuất xứ:

Về vế thách, theo nguồn tư liệu thứ nhất, tác giả là các vị bô lão, các vị có học trong làng Đồng Tranh đặt ra đề thách người trong và ngoài làng nhân khi xây dựng xong đình làng, còn nguồn tư liệu thứ hai cho rằng nhân một cuộc gặp mặt của các nhà khoa bảng trong vùng giữa lúc các sĩ tử ở Đồng Tranh đang sửa soạn khăn gói, lều chõng để lên đường ra kinh đô ứng thí, có người ra vế thách đề thách Tú Quỳ. Nguồn tư liệu thứ ba cho tác giả là một vị quan ra cho làng nhưng chưa nghĩ được vế thứ hai.

Về vế đối, ở nguồn tư liệu thứ nhất và thứ ba tuy có liên quan đến anh hàng chiếu, nhưng ở tư liệu thứ nhất - người bán chiếu là Hường Hiệu và cũng là tác giả vế đối, còn ở tư liệu thứ ba, anh hàng chiếu chỉ là người bán chiếu bình thường, còn tác giả vế đối là Tú Quỳ. Ở nguồn tư liệu thứ hai và thứ ba thống nhất Tú Qùy là tác giả của vế đối nhưng nguyên nhân để ông ra vế đối có khác nhau, một tư liệu cho Tú Quỳ ra vế đối do sự thách thức của một số người ở làng Đồng Tranh, còn tư liệu khác cho Tú Quỳ ra vế đối để giúp anh hàng chiếu bán hàng.

Sự khác biệt trên đây đối với một chuyện xảy ra trên một thế kỷ, lại nặng tính giai thoại là điều dễ hiểu. Tuy nhiên chúng ta phải thừa nhận rằng đây là một câu đối hay, đặc biệt liên quan đến 2 nhân vật lịch sử - văn hóa nổi tiếng với Đất Quảng và có nhièu kỷ niệm với Huế, nó cũng liên quan đến một địa danh cũng khá nổi tiếng của đất Cố đô. Thiết nghĩ để tìm cho đúng tác giả và hoàn cảnh xuất xứ của câu đối liên quan đến làng Gia Hội cũng là một công việc bổ ích. Làng Đồng Tranh nay thuộc xã Quế Thọ, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

P.X.Q
(129/11-1999)


--------------------------------------------
(1) Hường Hiệu, tên thật là Nguyễn Duy Hiệu, sinh năm 1847, tại Quảng Nam. Đỗ cử nhân năm 1876, phó bảng năm 1879, được cử làm Giảng tập tại Dưỡng Thiện đường dạy hoàng tử Ưng Đăng, sau này là vua Kiến Phúc, được phong Hồng Lô Tự Khanh nên dân quen gọi là Hường Hiệu. Sau khi Hàm Nghi xuống Hịch Cần vương, ông từ quan về quê, cùng một số đồng chí lãnh đạo phong trào Cần vương ở Quảng Nam. Ông bị giặc Pháp giết vào ngày 1 - 10 - 1887.
(2) Tú Quỳ,  tên thật là Huỳnh Quỳ, sinh năm 1857, tại làng Giảng Hòa, Quảng Nam. Ông rất thông minh nhưng cả 3 lần thi chỉ đỗ Tú tài nên nhân dân quen gọi ông là Tú Quỳ. Ông sáng tác văn chương đủ thể loại: Thơ, văn tế, vè, câu đối... Nội dung văn chương của ông nặng tính trào phúng mà nhiều người cho rằng chẳng khác Tú Xương ở đất Bắc. Ông mất năm 1928.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN TRỌNG HOÀCó thể khảo sát nghĩa của tục ngữ từ góc độ văn bản hoặc góc độ ứng dụng. Ở nước ta, việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ trong quá trình sử dụng không phải là một vấn đề mới mẻ, nhưng so với xu hướng này thì việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ ở trạng thái ổn định trên văn bản đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thật khó khẳng định rằng trong hai cách xem xét trên thì cách nào là quan trọng hơn, vì nó không chỉ phụ thuộc vào đặc trưng thể loại của đối tượng được nghiên cứu mà nhiều khi còn tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng loại đề tài và nói chung là tuỳ thuộc vào nhu cầu của hoạt động thực tiễn. Điều đáng lưu tâm là ở chỗ, khi mình đã lựa chọn hướng tiếp cận này thì đừng vì thế mà phủ nhận hướng tiếp cận kia.

  • TRẦN ANH PHƯƠNGĐi chơi gặp vịt cũng lùagặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu                                                (Ca dao)

  • VIỆT CHUNGTrong 12 con giáp, con dê (Mùi còn gọi là Vị) là con vật đứng vào hàng thứ 8, trước khỉ và sau ngựa. Dê tên chữ là Dương.Dê vốn là con vật miền núi, được thuần hoá nên có thể nuôi trong nhà. Hình ảnh con dê gây được những ấn tượng với người đời một cách khó quên. Đặc biệt của loài dê là dê đực hoặc dê cái đều có râu và có sừng, bản chất hiền lành và tràn đầy sinh lực.

  • TRIỀU NGUYÊNHiện tượng cùng âm xảy ra khi cùng một tổ hợp âm thanh nhưng có nhiều ý nghĩa khác nhau tương ứng, trong cùng một ngữ cảnh. Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm có thể chia làm hai loại: lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn; dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm; đồng thời, dạng cùng âm có yếu tố tên riêng cũng được xét như một loại đặc biệt.

  • PHẠM THỊ ANH NGATheo quan niệm thông thường, phép lịch sự bao giờ cũng có tính ưu đãi đối với tha nhân: dành cho kẻ khác một tầm quan trọng và thái độ trân trọng hơn là đối với chính bản thân. Nhưng cũng tuỳ từng nền văn hoá, mà giữa hai bên tương tác có sự cân bằng tương đối về vai vế hay không. C. Kerbrat-Orecchioni phân biệt: (1) Những xã hội ở đó quyền lợi giữa hai bên giao tiếp tương đối ngang nhau; (2) Những xã hội xem đối tượng tương tác (A: allocutaire) có được nhiều quyền ưu tiên hơn bản thân người tương tác (L : locuteur).

  • TRIỀU NGUYÊN1. Câu tục ngữ "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại" được sách Kho tàng tục ngữ người Việt (Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Nguyễn Thuý Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân; Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002) (KT), tr 75, ghi lại, trên cơ sở 12 đầu sách có chép nó.

  • NGUYỄN ĐỨC TĂNGCũng như ca dao, những câu hò trong dân gian thuộc loại văn chương bình dân nên rất phổ cập trong dân chúng. Tác giả của nó có thể là những nhà thơ dân gian, thường không lưu lại tên tuổi như những nhà thơ của văn học thành văn, nhưng cũng đóng góp đời mình vào sự phát triển của ngôn ngữ thơ ca trong lãnh vực văn chương bình dân.

  • TÔ VĨNH HÀNhỏ nhất như con chuột và kiêu dũng nhất như con rồng, mười hai con giáp trong lịch can - chi vẫn mãi thôi thúc lẽ nghĩ suy của muôn vạn kiếp đời trong cái nghiệp tận hằng của sự hiểu và cả “sự” làm người.

  • TRẦN ĐÌNH SỬNgười mù đều rất đôngTranh nhau nói sự thậtVoi vốn chỉ một thânThị phi lại bất đồng…

  • TRIỀU NGUYÊNI. Khái quátXem xét cách sử dụng hình ảnh của một thể loại văn học là yêu cầu cần có khi tiếp cận thể loại ấy. Tình hình nghiên cứu thể loại câu đố có nhiều hạn chế so với các thể loại khác của văn học dân gian, trong đó, có vấn đề hình ảnh.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGCho đến nay, đã có các công trình sưu tầm và biên soạn truyện cổ Tà Ôi khá đầy đặn về văn bản. Qua các công trình nầy chúng ta thấy rằng người Tà Ôi sinh sống trên dãy Trường Sơn, quần cư chủ yếu trên địa bàn hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đang lưu giữ một kho tàng tri thức phong phú về văn học dân gian mà trong đó thể loại An xoar (chuyện cổ tích) là một thí dụ điển hình.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGNgười Tà Ôi ở Việt Nam thật sự đã có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú với các thể loại: Ca dao (Pracăm), câu đố (Pralau), truyện cổ dân gian (Axoar), tục ngữ và dân ca.

  • TRIỀU NGUYÊN           Chùm Truyện ngụ ngôn

  • HẢI TRUNGVào thời Hán, ở Trung Quốc, có một vị tướng tên là Đậu Thao, do phạm trọng tội nên bị vua Hán đày biệt xứ ra biên ải. Vợ của tướng quân này là Tô Huệ là một phụ nữ bình dân sống bằng nghề dệt lụa. Từ ngày Đậu Thao bị đày ra biên ải, ngày đêm vò võ ngóng tin chồng, nhưng ngày tháng cứ nối nhau qua mãi mà vẫn biệt âm vô tín.

  • TRIỀU NGUYÊN 1.Trong cấu tạo nhan đề của thơ văn Hán Nôm, ở dạng danh ngữ, có hai hình thức thường gặp: danh từ trung tâm biểu thị thể loại (như: Hịch tướng sĩ văn - Trần Quốc Tuấn, Ngọc tỉnh liên phú - Mạc Đỉnh Chi, Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô Gia văn phái, Hạ Châu tạp thi - Cao Bá Quát,...).