LÊ THỊ ĐỨC HẠNH
Mộng Sơn là một trong số hiếm hoi những nhà văn nữ xuất hiện từ trước Cách mạng tháng Tám, sau này vẫn tiếp tục bền bỉ đóng góp cho nền văn học mới bằng những tác phẩm vừa phải, khiêm tốn, biểu lộ một tình cảm chân thành, một tấm lòng nhân ái.
Báo Phụ nữ thời đàm - Dòng báo phụ nữ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Ảnh: internet
Mới 13 tuổi, chị đã có bút ký Đời Nhật Anh đăng trên Phụ nữ thời đàm (1933). Sau đó, chị sáng tác một số bài thơ, viết truyện ngắn, phóng sự. Chị bắt đầu được chú ý từ bài thơ Viếng mồ lữ khách (đăng báo Văn Học, 1935) và cũng từ đây chị giữ hẳn bút hiệu Mộng Sơn(1). Và tuy đã có một số bài thơ được đăng báo, sau này vẫn tiếp tục, nhưng trong lĩnh vực văn xuôi lúc ấy, phụ nữ sáng tác còn quá hiếm và yếu, nên Mộng Sơn viết được mấy truyện ngắn, rồi có hẳn hai tập truyện có chiều sâu nhất định, nên chị được chú ý đặc biệt, được coi là một cây bút nữ rất tiêu biểu, và là một trong vài người(2) có công đầu trong sáng tác văn xuôi của phụ nữ. Tên tuổi chị gắn liền với hai tập truyện ngắn Vượt cạn (1952) và Làm nũng (1952). Không chỉ sáng tác, chị còn viết những bài đọc sách, sau in thành tập Văn học và triết luận (1944), viết xã luận. Sau hoà bình lập lại (1954), chị viết tương đối đều và nhiều hơn, cả truyện vừa (Gỡ mối - 1959), tiểu thuyết (Giận nhau - 1957), một ít bài thơ, riêng truyện ngắn là hai tập (Một khoảng trời xanh) -1962. Tuổi mười ba -1982, chưa kể một số bài đăng lẻ trên báo.
Mộng Sơn sinh ra từ một vùng có truyền thống văn học, quê hương của Yên Đổ, Tú Xương... Và hồi nhỏ chị còn hay sống ở quê ngoại, nơi có nhiều cảnh đẹp: Vạn Tùng Thôn (Thái Bình). Chị lại được ông ngoại đỗ cử nhân dạy cho học thuộc lòng những áng thơ hay, và nghỉ hè về nhà thường đọc truyện cho bà nghe. Từ đó, chị sinh ra ham mê đọc sách, thích viết văn và làm thơ. Nhưng cái thời mà tư tưởng phong kiến còn đè nặng lên đầu óc con người thì phụ nữ không phải dễ dàng được theo đuổi nghiệp văn chương. Mộng Sơn có tâm sự rằng: bà cụ thân sinh ra chị không muốn cho con gái làm nghề viết văn. Trong hoàn cảnh ấy, thường đêm khuya, chị phải vặn nhỏ đèn viết trộm, và có cảm giác phải dấu giếm như người đi làm "hội kín". Nhưng, một phụ nữ hay mơ mộng, giàu suy tư, lại sống trong cái xã hội tù túng, đầy sầu khổ thì lòng xót thương của con người, dù còn mơ hồ, cũng mạnh hơn mọi sự ngăn cấm. Và thế là những bài thơ bâng khuâng ngậm ngùi cho thân phận con người như Ai đứng bên sông, Đời phiêu linh, Đá mong chồng... vẫn được ra mắt bạn đọc.
Giữa lúc đó thì một làn gió mới thổi tới: Mặt trận bình dân Pháp lên cầm quyền, Mặt trận dân chủ Đông Dương ra đời. Các báo chí tiến bộ xuất bản nhiều... chưa kể, trước đó mấy năm, khi đang học ở trường Đồng Khánh (Huế), chị còn được đi nghe Phan Bội Châu nói chuyện... Lòng nhà thơ sẵn sàng rộng mở, đón nhận những gì mới mẻ, khỏe khoắn. Chị tham gia làm báo Việt Nữ, hăng hái viết bài về phong trào Mặt trận Bình dân Pháp, Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Cũng thời gian này, chị viết phóng sự Vất vưởng nói lên nỗi khổ của những trẻ em lang thang vô thừa nhận...
Một thời gian sau (1940), bước đầu ý thức được về mình, về người phụ nữ nói chung, chị liền giữ mục Đọc sách trong tuần báo Đàn bà. Ở đây, chị muốn đánh đổ một quan niệm coi thường phụ nữ, cho rằng phái yếu không làm được phê bình văn học, bởi họ chỉ giàu tình cảm, trong khi môn này lại đòi hỏi nhiều lý trí. Từ ý nghĩ đó, chị viết liền một số bài đọc sách: Về thơ (Quê ngoại của Hồ Dzếnh - Bức tranh quê của Anh Thơ), về văn (Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng, Cô Dung của Lan Khai), về kịch (Không một tiếng vang của Vũ Trọng Phụng), về nghiên cứu (Nam quốc nữ lưu của Sở Cuồng)... Tuy những bài viết còn sơ sài, nhưng có nhiều quan niệm đúng đắn, tức thời. Và đứng trên góc độ phụ nữ, hiểu thấu giới mình, chị đòi hỏi những nhà nghiên cứu hãy quan tâm hơn đến chị em nghèo ở thành thị và thôn quê, họ bị "cầm tù", bị là "nạn nhân rất đau khổ của chế độ". Chị cũng có những nhận xét về mặt nghệ thuật khá tinh tế. Trong tình hình phê bình văn học chưa phát triển, những bài viết sâu sắc, lành mạnh còn rất ít, nhất nữa của phụ nữ đang còn quá hiếm, thì cuốn Văn học và triết luận của Mộng Sơn là một đóng góp rất đáng trân trọng, một tiếng nói đáng kể đầu tiên của phụ nữ trong phê bình văn học.
Thời gian này, chị cũng sáng tác một số bài thơ và đến 1945, với niềm phấn khởi tràn đầy, chị viết bài Mừng Cách mạng tháng Tám thành công (3).
Chẳng bao lâu, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Do hoàn cảnh riêng bó buộc, Mộng Sơn phải ở lại Hà Nội, vùng tạm bị Pháp chiếm đóng chị cảm thấy day dứt, thêm vào đó, có những nỗi buồn riêng: con đầu lòng không nuôi được, bản thân bị đau ốm nhiều. Qua những ngày ở nhà Hộ sinh, rồi Bệnh viện Bạch Mai, chị có dịp được gặp gỡ, lắng nghe tâm sự, nỗi lòng của người bạn gái, rồi viết nên hai tập Vượt cạn (4) và Làm nũng (5). Ở đây, chúng ta bắt gặp biết bao nỗi cay đắng, oan khiên của phụ nữ, như có người mẹ vừa đẻ đứa con đầu lòng đã phải đem cho con đi, để đi ở nuôi con người (Một hiệu lệnh), có những người vợ bị chồng phụ bạc (Dương Thị Châu, Tuyệt tình,...), những nàng dâu bị mẹ chồng đối xử cay nghiệt, tàn nhẫn (Che miệng thế, Thử lửa), và còn vô vàn những điều ngang trái, bất công đè nặng lên cuộc đời người phụ nữ (Ra đi,... Là con người ta,...). Nếu như ở Vượt cạn, con người còn hoàn toàn chịu ép trước hoàn cảnh thì đến Làm nũng, họ đã bước đầu tìm thấy một chút ánh sáng lóe lên trong cuộc đời. Không phải nhà văn chỉ mỉa mai một anh chàng Phong "làm nũng" với thời đại (Làm nũng), nhằm đả kích vào những trí thức "trùm chăn" lúc ấy, mà đã gợi lên hình ảnh những phụ nữ biết thoát ra khỏi khuôn khổ gia đình, để có một việc làm ngoài xã hội (Thử lửa). Hơn nữa, họ còn "ra đi", tuy chưa biết phải làm gì, nhưng thấy không thể chỉ "sống riêng cái đời tình cảm bên trong" mà phải "sống theo nhịp sống chung bên ngoài" (Ra đi),...
Quả thật, sau những bài thơ đầu tay còn thiên về bâng khuâng, cảm hoài, tiến tới chị viết được một số bài phê bình có chất suy nghĩ và trong sáng tác cũng bám sát cuộc đời thực, đi vào khai thác tâm tư, tình cảm của những phụ nữ đang đau khổ, quằn quại trong nhiều tình huống éo le của cuộc sống dưới chế độ thống trị của thực dân Pháp lúc bấy giờ.
Hòa bình được lập lại (1954), thấy mình được giải phóng, chị mừng vui khôn xiết, vừa hăng hái đi thực tế để sáng tác, vừa tham gia các hoạt động văn học. Chị cố gắng nắm bắt những con người mới, đặc biệt đi sâu vào phụ nữ. Chị viết tiểu thuyết, bút ký, phóng sự, người thật việc thật, nhiều hơn cả là truyện ngắn. Những truyện ngắn sau hoà bình của chị phần lớn in trong Một khoảng trời xanh (6) và Tuổi mười ba (7). Hai tập này gồm nhiều đề tài khác nhau, nhưng nổi bật nhất trong Một khoảng trời xanh là tình cảm mẹ con, còn trong Tuổi mười ba là sự phấn đấu vươn lên của người phụ nữ mới. Với tình cảm chân thành, chị ngợi ca việc làm, tâm tư, tình cảm của những con người tưởng như bình thường, nhưng thật đáng quý. Qua đó, ta thấy nổi đậm lên sự chịu đựng, hy sinh thầm lặng, yêu chồng, thương con, giàu lòng vị tha của người phụ nữ Việt Nam. Nhiều truyện giản dị, nhưng xúc động như Đi bỏ phiếu, Đêm tháng bảy (trong Một khoảng trời xanh), Nhà hướng Nam, Tuổi mười ba (trong Tuổi mười ba)...
Năm 1957, Mộng Sơn cho in cuốn tiểu thuyết Giận nhau (8) chuyện về một phụ nữ chung thủy, thực thà, chẳng may sa vào tay giặc, lại bị kẻ xấu đặt điều vu khống, sau thông qua những hoạt động xã hội mà xóa dần được sự hiểu lầm, bảo vệ được hạnh phúc gia đình. Truyện có nhiều chi tiết sinh động, chân thực về những mối quan hệ rất phức tạp trong nông thôn còn nặng chất phong kiến, mà lớp trẻ ngày nay khó có thể tưởng tượng được.
Chị cũng viết một truyện vừa về nhà máy dệt của tỉnh nhà: Gỡ mối (9). Truyện nói lên một cách mộc mạc, chân thực sự vướng mắc trong quan hệ một cô thợ trẻ và một bác thợ già đã từng dạy nghề cô. Ngoài ra, thời kỳ này chị cũng sáng tác được mấy bài thơ đáng chú ý: Ngày về, Ca đêm (10)...
Là người cầm bút từ năm mười ba tuổi, từ khi văn học chưa có ánh sáng cách mạng soi đường, đất trời còn tối tăm oi ngột, còn nhiều thứ lộn xộn, thậm chí rác rưởi, thế mà một người phụ nữ làm thơ, viết văn như chị không bị hẫng hụt đã là quý, nhưng đáng quí hơn là những gì chị viết ra đều lành mạnh, trong trẻo, có tính nhân bản cao. Nếu như trong thơ, chị có phần bâng khuâng, mơ mộng thì trong văn, chị luôn phản ánh cuộc đời rất thực, nhiều khi còn quá mộc mạc, chân chất là khác. Chị viết văn xuất phát từ một tình cảm chân thành, thực sự thông cảm, xót xa trước những cảnh khổ đau của phụ nữ, hoặc của những trẻ em nghèo khó, lang thang, vất vưởng... đồng thời cũng vui mừng trước những bước tiến của giới mình...
Người đọc thấy bao trùm lên trên các tác phẩm của chị là một tình thương, thứ tình thương lặng lẽ, không sôi nổi, ồn ào, nhưng có chiều sâu và lắng đọng bên trong...
Chị không có sở trường về cách nhằm đặt ra và giải quyết những vấn đề dữ dội, gay cấn trong đời sống chị em, mà thiên về lối rủ rỉ, tâm tình, thuật chuyện, tả người, tả việc hơn là tạo dựng những tính cách sắc nhọn. Truyện của chị có vẻ hiền, nhưng không vì thế mà thiếu đi những trang sinh động. Dưới bút chị, những đức tính truyền thống của phụ nữ Việt Nam nổi lên rất rõ, cả những nét có vẻ xưa cũ cũng in đậm, đôi khi có chiều hướng lấn át cả phần hiện đại. Chị thường muốn gửi gắm quá nhiều vào mỗi tác phẩm, thành ra một số truyện ngắn có dung lượng hơi quá tải, có sự dồn nén, làm giảm đi phần nào chiều sâu của nó.
Tuy còn có điểm này, điểm khác chưa thỏa mãn người đọc, nhưng Mộng Sơn vẫn là một cây bút nữ được nhiều người yêu mến. Chị viết nhiều loại, nhưng nổi nhất ở thể loại truyện ngắn, và trong việc thể hiện một số mặt về cuộc sống của người phụ nữ, nhất là những khổ đau, dằn vặt của họ khi cuộc đời còn bị "cầm tù" dưới chế độ cũ, hoặc tư tưởng cũ. Chị là một tấm gương bền bỉ trong lao động nghệ thuật, là một nhà văn của phụ nữ. Những tác phẩm của chị như những trái ngọt đầu mùa của phái đẹp góp vào vườn văn nghệ chung của dân tộc.
L.T.Đ.H
(TCSH50/07&8-1992)
----------------------
(1) Trước đó, chị lấy bút hiệu Hải Đông thôn nữ.
(2) Anh Thơ cũng có một số truyện ngắn và cuốn Răng đen (1942), nhưng chị nổi bật hơn ở thơ nên vẫn thường xem chị là nhà thơ.
(3) Được giải thưởng thi thơ của UBND cách mạng huyện Thuận Thành.
(4) (Bắc Ninh) Nhà XB. T.giới - 1952.
(5) Nhà XB. Vỡ đất - 1952.
(6) Nhà XB. Văn học - 1962.
(7) Nhà XB. Tác phẩm mới - 1982.
(8) Nhà XB. Phụ nữ. Được giải thưởng thơ Văn nghệ do TƯ Hội LHPN tổ chức. Báo Campuchia đăng.
(9) Nhà XB. Lao động.
(10) Được đưa vào giảng dạy trong phần phụ văn lớp 8 (cũ).
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.