Mộng Sơn

08:27 20/10/2021

LÊ THỊ ĐỨC HẠNH

Mộng Sơn là một trong số hiếm hoi những nhà văn nữ xuất hiện từ trước Cách mạng tháng Tám, sau này vẫn tiếp tục bền bỉ đóng góp cho nền văn học mới bằng những tác phẩm vừa phải, khiêm tốn, biểu lộ một tình cảm chân thành, một tấm lòng nhân ái.

 

Báo Phụ nữ thời đàm - Dòng báo phụ nữ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Ảnh: internet

Mới 13 tuổi, chị đã có bút ký Đời Nhật Anh đăng trên Phụ nữ thời đàm (1933). Sau đó, chị sáng tác một số bài thơ, viết truyện ngắn, phóng sự. Chị bắt đầu được chú ý từ bài thơ Viếng mồ lữ khách (đăng báo Văn Học, 1935) và cũng từ đây chị giữ hẳn bút hiệu Mộng Sơn(1). Và tuy đã có một số bài thơ được đăng báo, sau này vẫn tiếp tục, nhưng trong lĩnh vực văn xuôi lúc ấy, phụ nữ sáng tác còn quá hiếm và yếu, nên Mộng Sơn viết được mấy truyện ngắn, rồi có hẳn hai tập truyện có chiều sâu nhất định, nên chị được chú ý đặc biệt, được coi là một cây bút nữ rất tiêu biểu, và là một trong vài người(2) có công đầu trong sáng tác văn xuôi của phụ nữ. Tên tuổi chị gắn liền với hai tập truyện ngắn Vượt cạn (1952) và Làm nũng (1952). Không chỉ sáng tác, chị còn viết những bài đọc sách, sau in thành tập Văn học và triết luận (1944), viết xã luận. Sau hoà bình lập lại (1954), chị viết tương đối đều và nhiều hơn, cả truyện vừa (Gỡ mối - 1959), tiểu thuyết (Giận nhau - 1957), một ít bài thơ, riêng truyện ngắn là hai tập (Một khong trời xanh) -1962. Tuổi mười ba -1982, chưa kể một số bài đăng lẻ trên báo.

Mộng Sơn sinh ra từ một vùng có truyền thống văn học, quê hương của Yên Đổ, Tú Xương... Và hồi nhỏ chị còn hay sống ở quê ngoại, nơi có nhiều cảnh đẹp: Vạn Tùng Thôn (Thái Bình). Chị lại được ông ngoại đỗ cử nhân dạy cho học thuộc lòng những áng thơ hay, và nghỉ hè về nhà thường đọc truyện cho bà nghe. Từ đó, chị sinh ra ham mê đọc sách, thích viết văn và làm thơ. Nhưng cái thời mà tư tưởng phong kiến còn đè nặng lên đầu óc con người thì phụ nữ không phải dễ dàng được theo đuổi nghiệp văn chương. Mộng Sơn có tâm sự rằng: bà cụ thân sinh ra chị không muốn cho con gái làm nghề viết văn. Trong hoàn cảnh ấy, thường đêm khuya, chị phải vặn nhỏ đèn viết trộm, và có cảm giác phải dấu giếm như người đi làm "hội kín". Nhưng, một phụ nữ hay mơ mộng, giàu suy tư, lại sống trong cái xã hội tù túng, đầy sầu khổ thì lòng xót thương của con người, dù còn mơ hồ, cũng mạnh hơn mọi sự ngăn cấm. Và thế là những bài thơ bâng khuâng ngậm ngùi cho thân phận con người như Ai đứng bên sông, Đời phiêu linh, Đá mong chồng... vẫn được ra mắt bạn đọc.

Giữa lúc đó thì một làn gió mới thổi tới: Mặt trận bình dân Pháp lên cầm quyền, Mặt trận dân chủ Đông Dương ra đời. Các báo chí tiến bộ xuất bản nhiều... chưa kể, trước đó mấy năm, khi đang học ở trường Đồng Khánh (Huế), chị còn được đi nghe Phan Bội Châu nói chuyện... Lòng nhà thơ sẵn sàng rộng mở, đón nhận những gì mới mẻ, khỏe khoắn. Chị tham gia làm báo Việt Nữ, hăng hái viết bài về phong trào Mặt trận Bình dân Pháp, Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Cũng thời gian này, chị viết phóng sự Vất vưởng nói lên nỗi khổ của những trẻ em lang thang vô thừa nhận...

Một thời gian sau (1940), bước đầu ý thức được về mình, về người phụ nữ nói chung, chị liền giữ mục Đọc sách trong tuần báo Đàn bà. Ở đây, chị muốn đánh đổ một quan niệm coi thường phụ nữ, cho rằng phái yếu không làm được phê bình văn học, bởi họ chỉ giàu tình cảm, trong khi môn này lại đòi hỏi nhiều lý trí. Từ ý nghĩ đó, chị viết liền một số bài đọc sách: Về thơ (Quê ngoại của Hồ Dzếnh - Bức tranh quê của Anh Thơ), về văn (Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng, Dung của Lan Khai), về kịch (Không một tiếng vang của Vũ Trọng Phụng), về nghiên cứu (Nam quc nữ lưu của Sở Cuồng)... Tuy những bài viết còn sơ sài, nhưng có nhiều quan niệm đúng đắn, tức thời. Và đứng trên góc độ phụ nữ, hiểu thấu giới mình, chị đòi hỏi những nhà nghiên cứu hãy quan tâm hơn đến chị em nghèo ở thành thị và thôn quê, họ bị "cầm tù", bị là "nạn nhân rất đau khổ của chế độ". Chị cũng có những nhận xét về mặt nghệ thuật khá tinh tế. Trong tình hình phê bình văn học chưa phát triển, những bài viết sâu sắc, lành mạnh còn rất ít, nhất nữa của phụ nữ đang còn quá hiếm, thì cuốn Văn học và triết luận của Mộng Sơn là một đóng góp rất đáng trân trọng, một tiếng nói đáng kể đầu tiên của phụ nữ trong phê bình văn học.

Thời gian này, chị cũng sáng tác một số bài thơ và đến 1945, với niềm phấn khởi tràn đầy, chị viết bài Mừng Cách mạng tháng Tám thành công (3).

Chẳng bao lâu, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Do hoàn cảnh riêng bó buộc, Mộng Sơn phải ở lại Hà Nội, vùng tạm bị Pháp chiếm đóng chị cảm thấy day dứt, thêm vào đó, có những nỗi buồn riêng: con đầu lòng không nuôi được, bản thân bị đau ốm nhiều. Qua những ngày ở nhà Hộ sinh, rồi Bệnh viện Bạch Mai, chị có dịp được gặp gỡ, lắng nghe tâm sự, nỗi lòng của người bạn gái, rồi viết nên hai tập Vượt cạn (4) và Làm nũng (5). Ở đây, chúng ta bắt gặp biết bao nỗi cay đắng, oan khiên của phụ nữ, như có người mẹ vừa đẻ đứa con đầu lòng đã phải đem cho con đi, để đi ở nuôi con người (Một hiệu lệnh), có những người vợ bị chồng phụ bạc (Dương Thị Châu, Tuyệt tình,...), những nàng dâu bị mẹ chồng đối xử cay nghiệt, tàn nhẫn (Che miệng thế, Thlửa), và còn vô vàn những điều ngang trái, bất công đè nặng lên cuộc đời người phụ nữ (Ra đi,... Là con người ta,...). Nếu như ở Vượt cạn, con người còn hoàn toàn chịu ép trước hoàn cảnh thì đến Làm nũng, họ đã bước đầu tìm thấy một chút ánh sáng lóe lên trong cuộc đời. Không phải nhà văn chỉ mỉa mai một anh chàng Phong "làm nũng" với thời đại (Làm nũng), nhằm đả kích vào những trí thức "trùm chăn" lúc ấy, mà đã gợi lên hình ảnh những phụ nữ biết thoát ra khỏi khuôn khổ gia đình, để có một việc làm ngoài xã hội (Thla). Hơn nữa, họ còn "ra đi", tuy chưa biết phải làm gì, nhưng thấy không thể chỉ "sống riêng cái đời tình cảm bên trong" mà phải "sống theo nhịp sống chung bên ngoài" (Ra đi),...

Quả thật, sau những bài thơ đầu tay còn thiên về bâng khuâng, cảm hoài, tiến tới chị viết được một số bài phê bình có chất suy nghĩ và trong sáng tác cũng bám sát cuộc đời thực, đi vào khai thác tâm tư, tình cảm của những phụ nữ đang đau khổ, quằn quại trong nhiều tình huống éo le của cuộc sống dưới chế độ thống trị của thực dân Pháp lúc bấy giờ.

Hòa bình được lập lại (1954), thấy mình được giải phóng, chị mừng vui khôn xiết, vừa hăng hái đi thực tế để sáng tác, vừa tham gia các hoạt động văn học. Chị cố gắng nắm bắt những con người mới, đặc biệt đi sâu vào phụ nữ. Chị viết tiểu thuyết, bút ký, phóng sự, người thật việc thật, nhiều hơn cả là truyện ngắn. Những truyện ngắn sau hoà bình của chị phần lớn in trong Một khong trời xanh (6)Tuổi mười ba (7). Hai tập này gồm nhiều đề tài khác nhau, nhưng nổi bật nhất trong Một khong trời xanh là tình cảm mẹ con, còn trong Tuổi mười ba là sự phấn đấu vươn lên của người phụ nữ mới. Với tình cảm chân thành, chị ngợi ca việc làm, tâm tư, tình cảm của những con người tưởng như bình thường, nhưng thật đáng quý. Qua đó, ta thấy nổi đậm lên sự chịu đựng, hy sinh thầm lặng, yêu chồng, thương con, giàu lòng vị tha của người phụ nữ Việt Nam. Nhiều truyện giản dị, nhưng xúc động như Đi bỏ phiếu, Đêm tháng bảy (trong Một khoảng trời xanh), Nhà hướng Nam, Tuổi mười ba (trong Tuổi mười ba)...

Năm 1957, Mộng Sơn cho in cuốn tiểu thuyết Giận nhau (8) chuyện về một phụ nữ chung thủy, thực thà, chẳng may sa vào tay giặc, lại bị kẻ xấu đặt điều vu khống, sau thông qua những hoạt động xã hội mà xóa dần được sự hiểu lầm, bảo vệ được hạnh phúc gia đình. Truyện có nhiều chi tiết sinh động, chân thực về những mối quan hệ rất phức tạp trong nông thôn còn nặng chất phong kiến, mà lớp trẻ ngày nay khó có thể tưởng tượng được.

Chị cũng viết một truyện vừa về nhà máy dệt của tỉnh nhà: Gỡ mi (9). Truyện nói lên một cách mộc mạc, chân thực sự vướng mắc trong quan hệ một cô thợ trẻ và một bác thợ già đã từng dạy nghề cô. Ngoài ra, thời kỳ này chị cũng sáng tác được mấy bài thơ đáng chú ý: Ngày v, Ca đêm (10)...

Là người cầm bút từ năm mười ba tuổi, từ khi văn học chưa có ánh sáng cách mạng soi đường, đất trời còn tối tăm oi ngột, còn nhiều thứ lộn xộn, thậm chí rác rưởi, thế mà một người phụ nữ làm thơ, viết văn như chị không bị hẫng hụt đã là quý, nhưng đáng quí hơn là những gì chị viết ra đều lành mạnh, trong trẻo, có tính nhân bản cao. Nếu như trong thơ, chị có phần bâng khuâng, mơ mộng thì trong văn, chị luôn phản ánh cuộc đời rất thực, nhiều khi còn quá mộc mạc, chân chất là khác. Chị viết văn xuất phát từ một tình cảm chân thành, thực sự thông cảm, xót xa trước những cảnh khổ đau của phụ nữ, hoặc của những trẻ em nghèo khó, lang thang, vất vưởng... đồng thời cũng vui mừng trước những bước tiến của giới mình...

Người đọc thấy bao trùm lên trên các tác phẩm của chị là một tình thương, thứ tình thương lặng lẽ, không sôi nổi, ồn ào, nhưng có chiều sâu và lắng đọng bên trong...

Chị không có sở trường về cách nhằm đặt ra và giải quyết những vấn đề dữ dội, gay cấn trong đời sống chị em, mà thiên về lối rủ rỉ, tâm tình, thuật chuyện, tả người, tả việc hơn là tạo dựng những tính cách sắc nhọn. Truyện của chị có vẻ hiền, nhưng không vì thế mà thiếu đi những trang sinh động. Dưới bút chị, những đức tính truyền thống của phụ nữ Việt Nam nổi lên rất rõ, cả những nét có vẻ xưa cũ cũng in đậm, đôi khi có chiều hướng lấn át cả phần hiện đại. Chị thường muốn gửi gắm quá nhiều vào mỗi tác phẩm, thành ra một số truyện ngắn có dung lượng hơi quá tải, có sự dồn nén, làm giảm đi phần nào chiều sâu của nó.

Tuy còn có điểm này, điểm khác chưa thỏa mãn người đọc, nhưng Mộng Sơn vẫn là một cây bút nữ được nhiều người yêu mến. Chị viết nhiều loại, nhưng nổi nhất ở thể loại truyện ngắn, và trong việc thể hiện một số mặt về cuộc sống của người phụ nữ, nhất là những khổ đau, dằn vặt của họ khi cuộc đời còn bị "cầm tù" dưới chế độ cũ, hoặc tư tưởng cũ. Chị là một tấm gương bền bỉ trong lao động nghệ thuật, là một nhà văn của phụ nữ. Những tác phẩm của chị như những trái ngọt đầu mùa của phái đẹp góp vào vườn văn nghệ chung của dân tộc.

L.T.Đ.H
(TCSH50/07&8-1992)

----------------------

(1) Trước đó, chị lấy bút hiệu Hải Đông thôn nữ.
(2) Anh Thơ cũng có một số truyện ngắn và cuốn Răng đen (1942), nhưng chị nổi bật hơn ở thơ nên vẫn thường xem chị là nhà thơ.
(3) Được giải thưởng thi thơ của UBND cách mạng huyện Thuận Thành.
(4) (Bắc Ninh) Nhà XB. T.giới - 1952.
(5) Nhà XB. Vỡ đất - 1952.
(6) Nhà XB. Văn học - 1962.
(7) Nhà XB. Tác phẩm mới - 1982.
(8) Nhà XB. Phụ nữ. Được giải thưởng thơ Văn nghệ do TƯ Hội LHPN tổ chức. Báo Campuchia đăng.
(9) Nhà XB. Lao động.
(10) Được đưa vào giảng dạy trong phần phụ văn lớp 8 (cũ).

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.

  • NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?

  • KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.

  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.