“Nhắc đến Phan Quang, chúng ta vẫn hình dung ông là nhà báo lớn, nhà hoạt động xã hội xuất sắc, quên mất Phan Quang còn là nhà văn...".
Nhà báo lão thành Phan Quang.
Đầu Xuân Canh Tý – nhà báo Phan Quang tặng tôi một tập bản thảo mỏng với tên sách (tạm đặt): “Tím ngát tuổi hai mươi - Tuyển truyện ngắn”. Sau “Lời thưa” của tác giả, là “Mấy lời mở sách” của nhà văn Trần Đăng Khoa: “Kể cũng thú vị thật!”. Ấy là theo Khoa, bấy lâu nay, khi nhắc đến Phan Quang, chúng ta vẫn hình dung ông là nhà báo lớn, nhà hoạt động xã hội xuất sắc, quên mất Phan Quang còn là một nhà văn. Ông viết văn còn sớm hơn cả viết báo và dịch sách.
Với Trần Đăng Khoa là vậy. Còn với tôi, kẻ hậu sinh cũng sinh năm Thìn như ông, nhưng kém tới hai con giáp, thì đọc bản thảo tuyển tập truyện ngắn của ông, toàn là những tác phẩm được viết trong 9 năm chống Pháp và sau tháng 10/1954 vài năm, thấy gặp nhiều kỷ niệm quá.
Đầu tiên phải kể đến truyện ngắn “Chiếc khăn tang” ông viết ở Thừa Thiên năm 1950 và in lần đầu trên tạp chí “Thép mới” của văn nghệ liên khu IV. Tả cảnh đôi trai gái “phải lòng nhau” – anh Cơ và cô Hường, gặp nhau bên dòng sông đào nhỏ, có một loài hoa ít được người Bắc và người Nam biết đến: hoa giêng giếng. Ông viết: “Bên bờ sông, hoa giêng giếng nở những cụm vàng, mùi hương của hoa toả mùi hơi hăng hắc, các cánh hoa vươn dài từ các ngọn cây chúi xuống như muốn với tới sát mặt sông…”
Ngày ấy, 5/4/2008, sau tiết Thanh minh, tôi có dịp về Xuân Bồ (Lệ Thuỷ - Quảng Bình) được một người bạn dẫn lang thang qua các triền sông Nhật Lê- Kiến Giang, chỉ vào những chùm hoa nhỏ làm thành những dải lụa vàng ven sông, bảo rằng: thật may cho ông, năm nay hoa giêng giếng nở muộn. Thường thì “ra giêng giêng giếng nở vàng”. Theo bạn tôi thì đây cũng là một món thực phẩm cho dân nghèo những năm giặc tạm chiếm, mà nhà thơ Lê Đình Ty đã tả thật sinh động trong bàì thơ “Hoa giêng giếng" của mình. Và hoa giêng giếng trở thành "kỷ niệm tháng giêng” cho những người trai từ biệt người yêu lên đường ra trận:
…Giêng giếng ai đặt tên?
Thời gian chưa kịp lớn
Chiến tranh lửa đạn tràn lan
Chúng tôi thành người lính
Ra đi gìn giữ xóm làng
Tiễn đưa
Giêng giếng
bạn vàng
trao tay…”
Trong truyện ngắn “Chiếc khăn tang”, làng quê của anh bộ đội Cơ và người vợ Hường có thời gian bị giặc Pháp tạm chiếm, “lập tề”. Để chống lại các thủ đoạn khủng bố của địch, gia đình nhà chồng phao tin anh Cơ chết ở đâu không biết và chị vợ đeo khăn tang. Bằng lối kể chuyện có trước có sau cho phù hợp với trình độ người đọc lúc ấy, nhà văn trẻ Phan Quang đã mô tả rất sinh động cuộc sống của người dân vùng mới lập tề và vui nhất là cảnh bộ đội về làng sau khi nhổ xong đồn bốt giặc. Chị Hường vứt bỏ chiếc khăn trắng, với niềm hạnh phúc vỡ oà khi đón chồng trở về…
“Xa xa một tiếng hoẵng kêu gọn lỏn, khô khan”. “Trời vẫn đang mưa và hình như còn nặng hạt hơn hồi nửa đêm. Sau một thoáng chần chừ người chiến sĩ cố mạnh dạn đặt hai bàn chân trần khô ráo lên con đường mòn sũng nước, miệng khe khẽ hát bài hát thân quen “Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi…”. Truyện ngắn “Lửa hồng” vào tay một nhà biên kịch tài giỏi, một đạo diễn giầu vốn sống, sẽ là một phim về tình quân dân rất hay.
Lại nhớ sau khi điện ảnh Việt Nam làm bộ phim truyện đầu tiên “Chung một dòng sông”, đã làm tiếp một vài phim, tiếc rằng bạn trẻ ngày nay chưa có dịp xem . Trong đó có phim “Vật kỷ niệm của người đã khuất” với cảnh mở đầu là một anh bộ đội áo bốn túi, mũ kê-pi có đính quân hiệu, trở về thăm một xóm nhỏ thời kháng chiến đơn vị đã đóng quân. Trên cánh đồng tấp nập người đang cắt lúa… Cảnh rất thật vì hoà bình mới lập lại chưa lâu trên miền Bắc, người chưa thay đổi, vật chưa thay đổi. Nhìn là nhận ra ngay quang cảnh đồng ruộng nông thôn miền Bắc lúc đó. Đọc những truyện ngắn của Phan Quang trong tập bản thảo “Tím ngát tuổi hai mươi” tôi lại được sống trong khung cảnh những năm chống Pháp mà tuổi thơ tôi không trải qua, thêm hiểu thế nào là “chiến tranh nhân dân”, hiểu được vì sao Nguyễn Đình Thi viết “nước Việt Nam từ máu lửa ,rũ bùn đứng dậy sáng loà”.
Một “đoàn hợp công xóm Lùng” ở rẫy Bến Than, những anh Lễ, cô Thơm, cô Thảo, anh Lành năng động trong việc gánh vác công việc phá hoang làm rẫy, tham gia bộ đội, du kích…nỗi trăn trở của ông Cựu “vô” hay “không vô” đoàn hợp công (truyện vừa “Đất rừng”)…và tất cả xôn xao khi bộ đội về làng, nghe tin “chiến thắng Việt Bắc” mà tự hỏi nhau “Việt Bắc là nơi nào” (Phan Quang thuật lại năm 1949) để sau này Tố Hữu mới có câu thơ “Trông lên Việt Bắc mà nuôi chí bền”.
Theo sự lớn mạnh của kháng chiến mà người và cảnh vật cũng thay đổi. Nếu trong truyện “Lửa hồng” anh chiến sĩ còn phải đi chân đất, thì trong những truyện ngắn sau, người chiến sĩ đã có đôi dép cao su, làm từ lốp ô tô chiếm được của giặc. Có lẽ khi viết truyện “Anh bạn thợ dép của tôi” (Nghệ An 1950), Phan Quang cũng không thể ngờ rằng “ đôi dép Bình Trị Thiên” ấy mấy chục năm sau đã theo bộ đội ta vượt Trường Sơn váo tới Dinh Độc Lập (Sài Gòn) và cuối những năm 1990 vẫn còn một ông giám đốc sở Xây dựng một tỉnh miền Nam Trung bộ, đi đôi dép này vào hội trường Thống Nhất dự một Hội nghị toàn quốc, mà tôi có dịp tiếp chuyện. Truyện “Anh bạn thợ dép của tôi” giúp cho bạn trẻ ngày nay hiểu vì sao đôi dép cao su làm từ lốp ô tô, lại mang cái tên “dép Bình Trị Thiên” . Tôi dám chắc là những người lớn lên ở miền Bắc, cho đến năm 1975, không ai là không biết. Cho nên truyện ngắn này có sức hấp dẫn. Nhân vật “anh bạn thợ dép” là anh bộ đội bị thương ở tay, trở nên gần gũi và dễ thưong hơn.
Trong tập truyện này, nhà văn Phan Quang có hai truyện viết về cải cách ruộng đất ở mìền Bắc. Truyện “Ông lão làm vườn trong nhà chung” và truyện ngắn “Đêm”. Rất tiếc là truyện vừa “Trăng ơi sao nỡ vội che” của ông, cũng về cải cách ruộng đất (trong đó miêu tả tình yêu của một đôi nam nữ) mà tôi được đọc bản thảo, ông không đưa vào tập bản thảo này. Trần Đăng Khoa nhận xét “truyện của Phan Quang hầu như không có chuyện. Chuyện “Bên phá Tam Giang” hay chuyện "Vô du kích” (có trong bản thảo) tóm tắt lại có vẻ nhạt vì chẳng có gì để nói, thế mà Phan Quang vẫn dựng thành được một cái truyện xinh xẻo, ấm áp”. Quả thật như vậy!
Đọc các truyện của Phan Quang viết về cải cách ruộng đất, thấy ông không kể chuyện đấu tố, không thấy viết về những chuyện đau lòng mà ngày nay khi nhắc về cải cách ruộng đất, nhiều người đã thuật lại. Dĩ nhiên, trong truyện nói về những nỗi cơ cực mà ông lão làm vườn, anh Cao, chị Lấm (truyện ngắn “Đêm”) . Tác giả cũng nêu rõ, những thủ đoạn bóc lột vừa tinh vi vừa trắng trợn đối với nông dân của tầng lớp địa chủ. Nhưng chủ đạo vẫn là việc cải cách ruộng đất đã mang lại cho những người dân nghèo cuộc đời mới. Đến lượt họ, khi được chia “quả thực” đã có những chuyện nhường nhịn, san sẻ cho nhau. Và giọng văn của Phan Quang như thanh thoát hơn khi kể về những niềm vui này.
Trần Đăng Khoa đã rất đúng khi viết rằng: cái làm nên sức sống trong các trang văn của Phan Quang là “cái tình rất chân thật”. Cái mà cụ Nguyễn Du gọi là “chữ Tâm”. Và ‘cái Tài”nữa chứ!
Trong một lần tâm sự, Phan Quang nói “tôi đã để nghề báo ngập lụt đời tôi”. Ông cũng kể khi ông còn đang phân vân giữa “văn’ và “báo” thì chính Bác Hồ đã hướng ông vào nghề báo. Và ông đã thực hiện lời Bác Hồ dạy, trở thành một nhà báo.
Trong cuốn hồi ký mới xuất bản cuối năm 2019, đã kể chuyện Pha-đê-ep, nhà văn Liên Xô nổi tiếng, sau một thời gian dài làm công tác quản lý và viết báo, khi quay trở lại viết văn rất khó nhọc. Cho nên dù đã có nhiều tác phẩm văn xuôi chững chạc, nhưng Phan Quang đã gần như dừng hẳn việc sáng tác văn xuôi. Và từ đó hình thành một phong cách báo chí Phan Quang “trong báo có Văn”. Và để đến mùa Xuân Canh Tý này, khi đã ngoài 90, ông đã tuyển chọn 8 truyện ngắn và truyện vừa, cùng 2 truyện ngắn dịch của nước ngoài, in thành tuyển tập có cái tên rất lãng mạn “Tím ngát tuổi hai mươi” như một món nợ văn chương phải trả.
Nhưng tôi tin rằng đây chưa phải là lúc nhà báo-nhà văn Phan Quang “rửa tay gác kiếm”. Bởi vì cuối tuyển truyện ngắn này, ông đưa thêm hai bài viết “Bên cầu ngói Thanh Toàn” nhân kỷ niệm ngày sinh lần thứ 100 cố nhà văn Bùi Hiển (1019-2019) và “Hai chuyến đi, dấu ấn để đời- chiến trường Bình Trị Thiên trong cuộc đời và sự nghiệp nhà thơ Chế Lan Viên” nhân kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh cố nhà thơ Chế Lan Viên (1020-2020).
Chúng ta cùng chờ xem…
Nguồn: Nhà báo Trương Cộng Hoà - VOV.VN
Nhà xuất bản Văn học và bạn bè, người thân, những người yêu mến tác giả Nguyễn Trọng Tạo - người nghệ sĩ tài hoa này vừa hoàn thành và ra mắt Nguyễn Trọng Tạo - tuyển tập. Bộ sách được giới thiệu tới công chúng trước ngày giỗ đầu của ông được xem như một ném tâm hương thành kính dành để tri ân tới người nghệ sĩ tác giả “Khúc hát sông quê”.
Mới đây, Ban chấp hành Hội Nhà văn TPHCM vừa công bố Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM năm 2019. Theo đó, có 4 tác phẩm được nhận giải thưởng và tặng thưởng trong năm nay.
Chiều ngày 17/12, tọa đàm ra mắt tiểu thuyết Cô độc của nhà văn Uông Triều diễn ra tại tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 4 Lý Nam Đế - Hoàn Kiếm, Hà Nội. Tọa đàm với chủ đề Cuộc hành hương của chữ, đã thu hút đông đảo các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, phê bình văn học đến dự và phát biểu ý kiến.
Tập thơ “Phút rành rang sống chậm” (NXB Hội Nhà văn, 2019) của nhà thơ, TS Nguyễn Trọng Hoàn (Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào đạo) có 184 bài thì hai phần ba số ấy nói đến hành vi đi và hình ảnh con đường. Ngay tại lời đề từ và bài Đề dẫn đặt đầu sách, tác giả đã viết: Ý nghĩ ăn phải bùa thiên di/ Anh đi mãi đến giờ không kịp nghĩ.
Sáng 12/12/2019, tại 58 Quán Sứ, Hà Nội, Ban Văn hoc - Nghệ thuật (V0V6) Đài Tiếng nói Việt Nam đã tổ chức buổi toạ đàm giới thiệu tiểu thuyết lịch sửĐường về Thăng Long của nhà văn Nguyễn Thế Quang.
Hãy cùng trở lại quá khứ, nghe câu chuyện có thật mà như cổ tích, để cảm nhận về một tình bạn đầy xúc động. Tình bạn giữa đôi voi Xung và Cung. Tình bạn giữa hai dân tộc Việt Nam - Liên Xô ngày ấy, Việt Nam - Liên bang Nga bây giờ.
Trong hội thảo do Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Bùi Hiển, cùng với những đánh giá và đề xuất nhận định thêm, rõ hơn về người cầm bút cần mẫn, bám sát đời sống người dân lao động, còn có những chia sẻ thân thiết về một bạn văn đáng kính của nhiều nhà văn.
Khoa Viết văn - Báo chí (tiền thân là Trường Viết văn Nguyễn Du) Trường Đại học Văn hóa Hà Nội vừa tổ chức kỷ niệm 40 năm thành lập.
Nhằm đúng ngày sinh nhật của nhà thơ Thanh Tùng, đông đảo văn nghệ sĩ đã tề tựu tại Hội Nhà văn Việt Nam để cùng trò chuyện về tài thơ cũng như cuộc đời ông, trong khuôn khổ hội thảo “Thanh Tùng – còn đây một thời hoa đỏ”.
Sáng 13-11, Hội nghị viết văn trẻ Hà Nội lần thứ III được tổ chức tại Ninh Bình. Nhiều nỗi trăn trở của người viết trẻ được nêu ra, song vẫn thiếu những giải pháp thiết thực được kiến nghị, đưa ra bàn thảo. Hơn lúc nào hết, người viết trẻ rất cần sự chung tay để phát triển tài năng, sáng tạo, vì sự phát triển văn hóa Thủ đô.
Kỉ niệm 84 năm ngày sinh nhà thơ Thanh Tùng (7/11/1935 - 12/9/2017), sáng ngày 7/11/2019, tại 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Hội Liên hiệp VHNT Hải Phòng tổ chức Hội thảo “Thơ Thanh Tùng - còn đây một thời hoa đỏ”.
Nhìn lại gần 100 năm qua, kể từ khi Thơ mới có những manh nha trên báo chí đến thời điểm hiện tại, có thể liệt hàng nghìn bài viết, công trình tập trung vào mọi khía cạnh của Thơ mới.
Tôi đọc nhiều bài thơ trong tập thơ “Biên bản thặng dư” (NXB Hội Nhà Văn 9/2019) đầy ấn tượng của nhà thơ Phùng Hiệu. Chủ lưu trong mạch trữ tình của anh là ánh nhìn tinh khôi về tình yêu, tình đời.
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CH Pháp tại Việt Nam Nicolas Warnery, vừa trao tặng Huân chương Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật cho nhà văn Ngô Tự Lập. Sự kiện nằm trong khuôn khổ Diễn đàn quốc tế “ Franconomics” được tổ chức tại L’Espace.
Ba mươi năm làm vợ làm mẹ, ba mươi năm làm báo viết văn đã đem lại cho nhà văn Y Ban nhiều trải nghiệm.
“Văn Nguyễn Minh Châu cho thấy nhiều hành trình, nhưng hành trình khiến tôi nhớ nhất là từ “Dấu chân người lính” (1972) đến “Lửa từ những ngôi nhà” (1977), vắt ngang thời điểm 1975, từ chiến tranh về hòa bình, từ chiến trường về hậu phương, nhưng là một hậu phương vẫn tiếp tục là chiến trường trong đời thường không khói súng. Có thể nói chất đời tràn trề, thấm đẫm trong văn Nguyễn Minh Châu” - GS. Phong Lê chia sẻ tại hội thảo “Nguyễn Minh Châu và tiến trình đổi mới văn học” nhân kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà văn.
“Châu - Chút tạ tình tri âm” của tác giả Thanh Thủy là cuốn bút ký viết về cuộc đời và sự nghiệp của người nghệ sĩ tài danh - NSƯT Mỹ Châu.
Bước ra từ chiến trường với 10 năm làm lính đặc công đã góp phần tạo nên tên tuổi của nhà văn viết về chiến tranh Việt Nam - Chu Lai. Hàng chục tác phẩm ra đời đã được đông đảo độc giả đón nhận nhưng chưa khi nào ông ngừng suy ngẫm và trăn trở. “Khi nào tôi còn neo vào hơi thở cần lao, còn hết lòng yêu thương con người, tôi còn tạo cho nhịp điệu trái tim mình”.
Không hoa lệ như trong những dòng văn của Thạch Lam, cũng không lãng mạn tình tứ như câu hát “sương giăng Hồ Tây trắng”... Hà Nội nói riêng và miền Bắc nói chung vào thập kỷ 70 của thế kỷ trước, hiện ra trong ký ức của tác giả Trung Sỹ rất khác.
Xuân Diệu thuộc tầng lớp trí thức Tây học nhưng từng có tới 10 năm học làm thơ cổ điển, bởi thế ông nắm rất vững các kỹ xảo thơ ca truyền thống, thấy được sự đắc địa trong các sáng tác thơ ca cổ điển để phát hiện về các điển phạm của hệ thống nhà thơ cổ điển Việt Nam.