Đoàn Sân khấu Việt Nam sau 1945 - Ảnh: culturalprofiles.net
[if gte mso 9]>
Ông vừa là tác giả vừa là diễn viên nhiều kịch bản được dàn dựng trong hai cuộc kháng chiến. Các tác phẩm chính:
Ông đã tham gia cuộc vạn lý trường chinh, 10 năm của quân đội cách mạng, đi 72 vạn người, về còn 7 vạn 2, ông đã đánh tan nhiều sư đoàn của Tưởng Giới Thạch, và đã từng vỗ ngực đôm đốp trước ba quân: “Một nhà thơ tàu có nói: Xưa nay chiến trận mấy ai về! Thằng này đã về”. Ông về nước từ ngày đầu cách mạng… Và vì ông đã đánh nhiều quân “tàu vàng” bên Trung Quốc, nên để ông ở miền Bắc, nơi quân tàu vàng nhân danh Đồng minh, sang tước khí giới Nhật - về mặt ngoại giao với tướng Lư Hán không tiện, nên cách mạng bố trí ông vào trong vĩ tuyến 17, ở khu V. Và mặc dầu lúc đó chưa có sắc lệnh gì của chính phủ cách mạng phong tướng tá cho ai cả, chung quanh vẫn gọi ông là tướng Nguyễn Sơn. Bên cái tài đánh giặc, ông còn có tài diễn thuyết. Suốt 4-5 tiếng đồng hồ, ông nói liền liền, không nghỉ. Hút thuốc lá liền liền, không nghỉ. Giọng nói vẫn oang oang, từ đầu đến cuối buổi diễn thuyết tuy hơi rè. Giọng một chiếc lệnh vỡ! Anh vừa đi ngắm một đoàn tàu vào Nam, như thường lệ. Về đến hiên ngoài trụ sở, anh đã nghe một giọng nói như lệnh vỡ từ trong phòng khách vang ra. Anh bước vào! Khỏi cần có người giới thiệu, anh đã nhận ra tướng Nguyễn Sơn. “Râu hùm! Hàm én mày ngài!”. Trên một bộ mặt chữ điền, nước da ngăm ngăm đen, đôi mắt to đen có ánh nâu, nghiêng về dữ tợn hơn là hiền hậu, những cái cười lại mở rộng cả hai hàm răng bị khói thuốc lá ám đen - cái cười không thể gọi là nụ được, nghiêng về hồn nhiên hơn là tính toán. Một hình ảnh của Từ Hải “Giang hồ quen thói…”. Nguyễn Sơn đứng dậy đưa bàn tay - nói là bắt thì không đúng - mà bóp chặt tay anh và đưa mắt hỏi một người bạn văn đang tiếp chuyện: “Bửu Tiến kịch!” - Anh bạn nói, Nguyễn Sơn: “À!” một tiếng lớn bóp chặt tay anh hơn: “Một mệ đi với cách mạng! Có sợ bị cách mạng phăng teo không? Cách mạng tư sản Pháp ngày trước nó phăng teo tất cả các mệ Pháp đấy!”. Và ông cười ha hả, ông quay sang anh bạn văn: “Cách mạng theo cách hiểu của AQ là cách cái mạng mà!” Ông lại cười. Phút tiếp xúc đối với anh thực là dễ chịu. Trò chuyện “nắng mưa” một lúc, rồi ông quay sang anh: “Kịch à, có biết Lôi Vũ không?”. Anh bạn văn tiếp lời ông: “Chu Phác Viên đấy!” Ông lại: “À” một tiếng và ông chăm chú nhìn anh “- Mệ mà đóng địa chủ, tư sản thì có đất đấy. Nhưng hiền quá, Chu Phác Viên nó dữ hơn nhiều, vì nó đã bóc lột thực sự trên 40 năm! Còn mệ này, chưa bóc lột được ai, phải không?” Anh thoáng mỉm cười, thoáng nghĩ đến những thất bại liên tiếp của anh trong kinh doanh, hiệu may Tây ở Huế, lò ấp vịt ở Quảng Trị, hội buôn lấy tên Đào Viên… chỉ còn lại cái bảng đá… chỉ toàn thua lỗ, vì vụng về cũng có, vì không gặp thời cũng có, nhưng chủ yếu vì cách làm ăn tài tử của anh - Và anh nhìn Nguyễn Sơn chỉ một cái thước duy nhất để đo người: bóc lột và không bóc lột. Nhưng Nguyễn Sơn đã trở về với Lôi Vũ, thao thao bất tuyệt, ông nói về các giai cấp và các tầng lớp xã hội ở Trung Quốc, nơi ông đã sống hơn 20 năm cuộc sống thừa mứa và trụy lạc trong xa hoa của địa chủ và tư sản, cuộc sống đói nghèo và tủi nhục trong âm u của công nhân và nông dân, những cuộc đấu tranh giai cấp, âm ỉ, rồi bùng nổ, đẫm máu… Cái bối cảnh lịch sử ấy được trình bày khúc triết, sinh động với những nhận xét vừa hóm hỉnh vừa sâu cay pha lẫn những tiếng chửi thề - bằng tiếng tàu chỉ chiếm hơn một tiếng đồng hồ. Vẫn chưa đả động đến Lôi Vũ. Sau bữa cơm trưa, Nguyễn Sơn không nghỉ trưa và cũng không để cho ai nghỉ trưa cả. Ông lại tiếp tục nói về Lôi Vũ. Ông đã đi sâu vào tâm lý nhân vật, vào diễn biến các sự kiện trong vỡ kịch, phân tích từng chữ, từng lời và cách nhấn mạnh từng ý như một nhà đạo diễn thành thục. Ông tướng võ này hấp dẫn anh quá. Nên cuối cùng khi anh tạm dừng về Lôi Vũ (vẫn chưa hết) qua ba tiếng đồng hồ, ông nói: “Cánh mình đang cần một đoàn kịch tuyên truyền kháng chiến ở liên khu V đây!” Liên khu V đây chưa hẳn là một chiến trường thực sự lúc đó, nhưng cũng là “cửa ngõ” mon men như anh thường ao ước. Nên khi Nguyễn Sơn hất đầu hỏi: “Có đi được không?” Anh trả lời ngay: “Đi được. Đi ngay ngày mai” - Đi ngay ngày mai - Nguyễn Sơn lại bóp chặt tay anh một lần nữa: “Ăn cơm Việt Minh đấy! Mệ chịu được không?”. Cơm Việt Minh, cơm đỏ, vài con cá kho khô, đĩa rau muống luộc… đã trở thành bữa ăn quen thuộc của hàng triệu người từ ngày cách mạng… Và là niềm kiêu hãnh của những người đi làm công tác cách mạng. Anh trả lời: “Được!” Nguyễn Sơn một tay không rời bàn tay anh, một tay vỗ vào vai anh một “cú” rất mạnh, “Cái mệ này tố hảo lố!” Rạng ngày mai, anh xách chiếc va li con đựng một ít áo quần và với Đoàn kịch trong Miên vào Quảng Ngãi, sung vào đoàn kịch ủy ban kháng chiến miền Nam. Ở đó, anh diễn kịch cách mạng và kháng chiến, Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng và một số kịch ngắn của đơn vị sáng tác. Nguyễn Sơn tuy bận nhiều công việc, thỉnh thoảng đến thăm đoàn và vẫn tiếp tục trao đổi về Lôi Vũ. Lần đầu tiên anh ăn cơm Việt Minh và mặc quân phục Việt Minh (áo sơ mi quần dài bằng vải xita nhuộm bùn). Cũng quen dần đi. Và nhất là được tướng Nguyễn Sơn cho cùng đi, tham quan mặt trận An Khê chưa có tiếng súng trường của giặc Pháp bắn đến đó nhưng đại bác moóc-chi-ê chúng nó câu đến từ xa, và bom chúng nó thả từ những máy bay bà già xuống gần đó. Anh đã bắt đầu ngửi mùi thuốc súng, đã nấp máy bay, và đạn đại bác, đã quen dần mùi chiến trường, và như phương ngôn thường nói: “Cái ngon miệng đến dần trong khi ăn” anh đã thấy ham. Trên đường Quảng Nam - An Khê (đường tàu đã bị cắt để kháng chiến), ô tô của anh đi với Nguyễn Sơn, cùng một chiều với những ô tô chở đoàn quân Nam Tiến, cũng vang tiếng hát trên đường và anh có cảm giác anh đã hòa với quân đội đó, tuy mới một chặng đường, nhưng không còn đi ngược dòng với họ, hay chống can đứng bên lề đường xem họ đi nữa. Nhưng Nguyễn Sơn bận nhiều việc. Đoàn kịch làm việc dưới sự chỉ huy của một trưởng Ban chính trị khu. Một hôm trong một buổi diễn tập, gặp một trường hợp vợ một chiến sĩ trong vỡ kịch được tin chồng hy sinh, khóc lên nghẹn ngào… Anh trưởng ban, ngồi xem tập, bắt ngừng lại và phát biểu: “Không được! Vợ người cách mạng không khóc, phải biến đau thương thành hành động, phải căm thù! Khóc là tiêu cực, tiểu tư sản!”. Các diễn viên nhìn nhau. Anh ngao ngán trước cái máy móc cứng đờ của nhận định, mà lại có quyền đó. Anh hậm hực trong im lặng. Sau đó anh lấy một cái cớ tào lao, xin trở ra Huế. Bước thứ hai thử đi với Việt Minh cũng bị bỏ dở như bước thứ nhất. Bước thứ ba anh trở về Huế, lại tham gia sinh hoạt nhóm xây dựng, một sinh hoạt hầu như một loại “khách thính” ngày xưa, tối thứ sáu họp nhau, bàn những dự định sáng tác, dự định thôi, rất ít người thực hiện. Thỉnh thoảng có người đi Quảng Ngãi để viết (Lưu Trọng Lư), lên tòa báo Cứu quốc ở vùng núi Thừa Thiên (Chế Lan Viên), hay làm thơ ở ngay Huế (Khương Hữu Dụng). Tình hình giữa ta và Pháp có vẻ găng tợn. Hồ Chủ tịch đi Pháp mới về, qua mấy tháng hồi hộp đợi chờ của toàn dân, nhưng nghe chừng cũng không ăn thua lắm. Quân Pháp nhiễu sự gây gỗ với tự vệ ta ở Hải Phòng, Hà Nội, ngay cả ở Huế, Tàu Vàng đã rút lui… Tin tức về quân Pháp buộc ta điều kiện này, điều kiện nọ, bay về hàng giờ… Và cuối cùng, lệnh kháng chiến toàn dân đêm 19-12-1946. Đêm đó, anh đang ở nhà. Vào khoảng gần 12 giờ đêm, tiếng súng nổ vang, làm anh tỉnh dậy… Và ngồi nghe súng nổ râm ran, nơi này, nơi khác trong thành phố. Nền trời bị những luồng đạn qua lại chằng chịt như xé tấm màn đen rộng. Tảng sáng, anh lên trụ sở nhóm xây dựng trong thành nội. Thận trọng vượt qua cầu Gia Hội, nơi quân Pháp bên kia sông Hương bắn sang. Anh xung vào đoàn Văn nghệ kháng chiến Thuận Hóa, tham gia nhóm tuyên truyền lưu động trong 6 huyện, phổ biến đường lối trường kỳ kháng chiến của cách mạng, do Hải Triều đã viết lại thành văn bản: Kháng chiến 3 giai đoạn, phòng ngự, cầm cự và phản công. Mặt trận Huế lúc bấy giờ, còn là mặt trận “Morin”, một khách sạn lớn của Pháp và người Pháp ở tập trung nơi đó… Chúng ra sức chống cự trong lúc đợi viện binh ở Sài Gòn ra, Hà Nội vào. Anh làm phóng viên mặt trận, cùng với Lưu Trọng Lư, chúi dưới gầm cầu Tràng Tiền, tham quan trận đánh của tự vệ Huế, và viết bài cho báo Quyết chiến của Việt Minh Trung bộ, và đi về vùng nông thôn, 6 huyện của Thừa Thiên, phổ biến về đường lối kháng chiến…
Trong thời gian ngắn ngủi này, anh được tiếp xúc với một số cán bộ Việt Minh khác trong đó có anh Nguyễn Chí Thanh. Cũng một kiểu người như Nguyễn Sơn, nhưng hoàn toàn Việt Nam. Cũng khuôn mặt vuông, chiếc cằm gãy góc cương quyết, cũng đôi mắt sáng và sâu. Cũng một cái cười cởi mở, cũng nước da nâu, trên bộ ngực hay đánh trần. Đôi đùi rắn chắc trong chiếc quần cộc đen. Và mặc dầu hết sức bận việc, anh vẫn tìm ra được mười lăm, hai mươi phút, để trao đổi về văn thơ. Và cũng rộng rãi trong việc nhận xét con người. Mặt trận Huế vỡ. Quân Pháp được thêm quân tiếp viện đánh bung ra. Đại bác của chúng rót hàng giờ trên đường rút lui của ta. Chúng tung tay sai ra do thám ở vùng nông thôn. Chúng treo giải thưởng 10 vạn đồng cho ai chỉ điểm đúng chỗ ở của anh Nguyễn Chí Thanh để chúng vây bắt. Anh vẫn mình trần chiếc quần cộc đen, khẩu súng dắt cạp quần, xông xáo lội sông lội suối, len lỏi đi đến tận nhà từng cán bộ cơ sở giải thích lệnh “bám đất, bám làng, giữ vững cơ sở của Đảng, chỗ dựa của dân”, thoắt hiện, thoắt biến, qua nhiều phen chết hụt. Cán bộ cơ sở, giao thông qua phản công ồ ạt của giặc, tán loạn như một đàn ong vỡ tổ, được anh tiếp sức cho nguồn nghị lực mà anh còn thừa, lại quay về với tổ, can đảm và kiên nhẫn bay lượn trong vườn hoa quần chúng và tiết ra chất mật ngọt ngào: lòng tin yêu của quần chúng. Tiếp sức cho quần chúng, và được quần chúng tiếp sức cho, các cơ sở của Đảng ở 3 tỉnh Bình Trị Thiên ngày một lớn mạnh dần, chờ đợi cơ hội, có thể tự mình đứng lên giải phóng cho mình. Anh Nguyễn Chí Thanh là con ong chúa trong đàn ong lớn đó. Người cán bộ Việt Minh này hấp dẫn anh như tướng Nguyễn Sơn trước đây. Chủ trương đã được phổ biến: rút lui về nông thôn, về rừng núi, tiếp tục chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng. Bao giờ? Chưa biết được. Còn tùy sức cố gắng của từng người, của toàn dân. Chuyến này sẽ đi xa thực sự đấy! Không còn “cố đô” để rút về như vừa qua đâu! Trở về cố đô, về với gia đình là về với giặc rồi. Mà ra đi kháng chiến thực sự, anh cũng đã thấy quen và ham, bom đạn giặc anh đã nếm mùi, cơm áo Việt Minh anh đã biết. Chịu được! Duy cái điểm máy móc hẹp hòi của mấy cán bộ, kiểu anh thanh niên đã diễn thuyết trong cuộc họp Văn hoá Cứu quốc, kiểu anh Trưởng chính trị ở Quảng Ngãi, trở thành nỗi băn khoăn lớn của anh. Rồi đây trong cuộc kháng chiến lâu dài, mấy khi anh sẽ được tiếp xúc với kiểu Người: Nguyễn Sơn, Nguyễn Chí Thanh. Mà chắc chắn là với hai kiểu người “máy móc và hẹp hòi” trên kia là nhiều nhất. Liệu anh có dẹp lại được cái tôi của anh, để trọn nghĩa, trọn tình với cách mạng hay lại nổi đóa lên, để đứt đoạn như hai chuyến đi thử với Việt Minh vừa qua? Trong tiếng đại bác của giặc bắn đuổi sau lưng, anh vẫn miên man trong suy nghĩ đó. Và anh tự cười mình: cái tôi của anh là cái gì mới được chứ? Một viên đạn súng trường trúng đích, một mảnh đại bác bắn vu vơ… thế là hết cái tôi bé nhỏ đó. Và trong những đoàn người Nam tiến từ mấy tháng nay, biết bao người hơn anh về nhiều mặt, trẻ hơn anh, tương lai hứa hẹn với họ nhiều hơn, mặt giáp mặt với quân thù hơn anh, họ có tính toán với cái tôi của họ như cái tôi nặng trình trịch của anh không? Họ có quan tâm đến cái máy móc hẹp hòi của chỉ huy của họ không? Trước mặt họ chỉ có giặc Pháp đang quay lại xâm chiếm đất nước một lần nữa. Trong đầu họ, chỉ có một ý nghĩ dẫn đến một hành động duy nhất: phải đánh giặc tiêu diệt đến tận cuối cùng giải phóng đất nước. Họ làm theo mệnh lệnh của cách mạng, mệnh lệnh của lịch sử, mệnh lệnh của toàn dân và nhất là mệnh lệnh của trái tim yêu nước của họ! Chính họ đang thể hiện một cái tôi đẹp nhất của họ, cái tôi hành động, khác hẳn với cái tôi chỉ suy tư một cách viễn vông của anh… Đạn đại bác của giặc bắn theo kia! Máy bay bà già của giặc thả bom kia! “Đi chuyến này phải đi luôn cho đến phút cuối cùng đây!”. Anh tự dặn mình như vậy. Chiều hôm đó, anh về thăm ba mẹ anh tản cư ở Phú Lương cách Huế 12 cây số. Anh vừa bước chân vào nhà, chưa kịp đặt ba lô, ba anh đã nói: “Giỏi rồi, giỏi lắm rồi! Con đi!” Anh hỏi lại: “Giỏi gì hả ba? Mặt trận Huế vỡ rồi! Tây tràn ra cả tỉnh ba không biết sao”. Ba anh tiếp: “Biết, biết, nhưng Việt Minh thiệt đã giỏi. Ngày trước tài giỏi như ông tướng (Tôn Thất Thuyết) mà chỉ đánh Tây được có một đêm, đến tảng sáng thua phải phò Đức Hàm Nghi chạy ra Tân Sở. Ngày nay Việt Minh vây Tây, kèm chúng trong thành phố Huế được hơn 20 ngày rồi mới chịu thua. Giỏi quá mà!” Anh buồn rầu nhìn ba anh. Và anh hỏi lại: “Ba thấy thời cuộc sẽ ra sao?” Ba anh trả lời: “Mặc dầu mình thua, nhưng đã đánh chúng nó một trận 20 ngày trời. Chúng trở lại cũng phải khiếp đảm với mình. Và sẽ nới tay hơn”. Anh ngao ngán: “Thưa ba, mình chưa chịu thua đâu. Mình rút ra ngoài xây chiến khu rồi đánh lại”. Rút? Đánh lại? Ba anh ngồi trầm ngâm hơi lâu rồi thở dài: “Rồi lại thất bại như Đức Hàm Nghi thôi. Còn con, con về chớ!” - “Thưa ba, không, con rút theo Việt Minh”. Ba anh càng trầm ngâm hơn: “Con yêu Việt Minh lắm hả”. - “Thật tình mối duyên của con với Việt Minh cũng chưa mặn mà cho lắm. Duyên ít nhưng nợ nhiều, thưa ba”. Ba anh tiếp: “Nợ, ừ, nợ làm trai như Nguyễn Công Trứ đã nói. Nhưng cái nợ công danh, con cũng đã phủi sạch từ lâu rồi kia mà” - “Thưa ba, không phải nợ công danh… Mà là nợ đời với bản thân, nợ đối với đất nước, nợ đối với ông cha trong quá khứ, nợ đối với con cháu trong tương lai. Bao nhiêu món nợ thúc giục con đi…” Ba anh nhìn ra ngoài: “Nói nhỏ đừng để mẹ con nghe thấy, rồi mẹ con khóc không đi được đâu, (một lát) con chắc là cuộc kháng chiến này sẽ thành công à?” - “Thưa ba, con cũng chưa dám chắc” - “Chưa dám chắc mà đòi đi?” - “Dạ thưa ba con đã thưa với ba bấy nhiêu món nợ đó”. Ông trầm ngâm: “Thôi để qua đêm ba nghĩ đã. Nhớ đừng nói với mẹ vội”. Và từ đó ông trầm ngâm cho đến gần tối. Mẹ anh về, ông bảo: “Hôm nay con nó về thăm bắt con gà làm thịt cho nó ăn với”. Mẹ anh xuống bếp loay hoay cơm nước, và ông ngồi im lặng hút thuốc lào vặt, thỉnh thoảng nhìn sang anh, vẫn không nói gì. Tối hôm đó tuy có thịt gà, nhưng hết sức im lặng. Bà mẹ ngạc nhiên lo lắng, hết nhìn chồng, lại nhìn con… Nơi tản cư, tôi đến, ngủ sớm. Anh nằm trên chiếc phản con cứ nghe ba anh trở mình luôn, thỉnh thoảng ông ngồi dậy, đến bàn, hút điếu thuốc lào, và ngồi im lìm hàng nửa tiếng mới quay về giường nằm. Một lát, lại nghe tiếng trở mình. Anh thương cha. Có lẽ suốt đêm nay ông không ngủ, gà mới gáy sáng, nghe thấy ông trở mình ngồi dậy. Anh vội dậy theo, anh biết tính ông hay uống nước trà sáng, anh toan xuống bếp nấu nước, ông ngăn lại: “để ba đun cũng được, con cứ ngủ đi”. Anh ngạc nhiên lần đầu tiên thấy ông tự nấu lấy nước uống. Anh nằm trở mặt xem ông đặt ấm nước lên bếp một cách vụng về, cúi xuống thổi lửa một cách vụng về. Và ngồi im lìm, lơ đãng chờ nước sôi, cái ấm con nước đã sôi. Ông lấy khăn, bọc quai ấm và toan đem lên, anh vội dậy xách ấm nước sôi lên nhà. Ông lên theo. Ông bỏ trà vào ấm chuyên, và nói dịu dàng: “Đưa đây cho ba!” Tự tay ông rót nước sôi vào ấm trà và đợi trà ngấm, tự tay ông rót ra hai chén. Anh đang lúi húi gỡ cái đầu bịt bạc của chiếc can bằng mũi dao díp. Anh tháo nó ra để một góc giường: chiếc can chỉ còn lại một màu đen huyền của chất gỗ mun đã lên nước… Bỗng ba anh gọi: “Con uống chén nước rồi đi cho sớm kẻo máy bay”. Lần đầu tiên từ 25 năm nay anh mới được người cha tự tay rót chén nước trà mời anh. Anh rưng rưng cầm chén nước lên. Và ông cũng cầm chén nước của ông lên, hơ hơ ngang mắt rồi dịu dàng hỏi: “Rồi đây thua con đi đâu?” Trời ơi. Ba anh vẫn yên trí qua một đêm suy nghĩ rằng chúng ta sẽ thua thôi. Anh khó giải thích để dẹp tan một định kiến như vậy. Anh chỉ còn biết an ủi ông. Anh biết ông rất yêu mến văn thơ của Nguyễn Thượng Hiền. Nên anh thưa: “Thưa ba, nếu thua, con sẽ sang Tàu dạy học như ông Nguyễn Thượng Hiền ngày trước”. Ba anh nở một nụ cười buồn, cầm chén nước trên tay và khe khẽ, ngâm câu thơ của Nguyễn Thượng Hiền: Tha hồ ai biết ai không biết Gọi tớ rằng chư, gọi tớ sầu. Ông uống cạn chén nước rồi giục: “Thôi con uống thêm chén nước, chào mẹ rồi liệu đi cho sớm kẻo máy bay”. Và ông gọi vào “Bà ơi!” Mẹ anh vốn tỉnh ngủ “dạ” ngay, “Bà dậy tiễn con kìa. Nó đi đó!”. Mẹ anh choàng dậy ngay “Con đi đâu?” Ông đưa mắt cho anh. Anh hiểu ý: “Thưa mạ, con về đơn vị” - “Mặt trận Huế bể rồi, con về đơn vị mà làm chi” - “Thưa mạ chúng con rút ra ngoài rồi đánh lại sau”. Mẹ anh bỗng òa lên khóc: “Đó lại đi rồi biết đến bao giờ mới về với mạ!” Anh đeo ba lô - một cái va li gỗ anh đã đóng đôi quai da vào để đeo đi đường cho tiện, dẫn mẹ ra khỏi sân. Ba anh đứng lại trong sân, trầm ngâm, đôi mắt đỏ hoe vì đã dụi nhiều, tay bỏ sau quần theo thói quen của ông, đứng lặng sau hàng rào dâm bụt. Đêm qua trời hơi mưa. Đường làng trơn. Anh đưa cái can cho mẹ chống. Anh dìu mẹ ra đến đầu cầu tay khỉ. Đến đó, anh thưa: “Thưa mẹ về, con đi”. Anh nhìn lại ba anh vẫn đứng đó. Một bóng trắng im lìm sau hàng rào dâm bụt. Mẹ anh mếu máo: “Con đi rồi biết bao giờ về?”, và bà trao cái can cho anh: “Con đem nó đi theo, coi như con đã chống gậy cho mẹ đó”. Anh cầm cái can, rưng rưng. Mẹ anh vừa mếu máo vừa quay lui. Anh tần ngần một lúc, đội chiếc mũ vải ka ki lên đầu, xóc vai chiếc va li gỗ hai tay nắm chặt hai quai, quay lưng. Sau những chuyến đi thử và ngắn ngày với Việt Minh, đây là chuyến đi thiệt và dài ngày, một chuyến đi vì duyên ít nhưng nợ nhiều. Anh vẫn chống can đi, nhưng chiếc can không còn bịt bạc. Tháng 6 năm 1985 B.T. (16/12-85) |
LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.
MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.
VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.
DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.
NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )
TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.
ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.
PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư hoàn cảnh”.
ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.
DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...
TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!
LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.