Màu xanh vĩnh cửu

08:39 03/08/2020

LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG  
                                Bút ký  

Huế được xem là một thành phố vườn, cả thành phố là một công viên lớn, ở đâu cũng thấy được một màu xanh mát dịu của cỏ cây, sông, hồ, đồi núi.

Huế mùa sương - Ảnh Phạm Bá Thịnh

Nhìn từ trên cao, Huế với màu xanh bát ngát, mênh mông. Cây xanh được xem là lá phổi của vùng đất Cố đô, là di sản luôn được chăm dưỡng, nâng niu. Những con đường rợp bóng cây xanh, mỗi mùa đơm hoa kết nụ rực rỡ. Những công viên cây xanh phủ kín. Những khu vườn xanh mát, đầy hoa đầy trái. Tất cả làm nên một Huế xanh.

Dưới bóng râm của tán cây, người về ngồi đó trầm tư trong bạt ngàn hương sắc cỏ cây mùa hè. Nắng hồng về đậu trên bông kim phượng rồi qua bông cẩn rầm rì ca vui. Đây chiếc lồng đèn soi mình trên cột gỗ và chữ vạn trang nghiêm ẩn hiện trong màu tối cát tường. Những loài hoa mộc mạc, bình dị ấy được khắc trên Cửu đỉnh đã đi ra từ những khu vườn, đi vào lịch sử, đi vào thi ca. Ở đó, một thế giới sâu thẳm, ban sơ đã tồn tại bằng hơi thở tươi trong vô ngần của xứ sở, lung linh tỏa sáng trong dòng chảy văn hóa hơn bảy thế kỷ đầy biến động. Nếu một ngày nặng mang những nỗi niềm nhân thế, thử dạo bước qua một khu vườn xứ Huế, gánh chất chồng ấy sẽ vơi đi bớt phần nào.

Cất bước vào căn nhà rường khiêm tốn trong khu vườn xanh mát, tôi chìm đắm trong không gian hằng lưu cữu vệt sống mấy trăm năm. Nói đến kiến trúc nhà Huế xưa, người ta thường nghĩ ngay đến nhà rường. Rường là cách gọi rút ngắn của rường cột. Nhà rường là loại nhà có hệ thống cột kèo gỗ, được dựng lên theo những quy cách nhất định. Dù to lớn đến đâu, nhà rường cũng được kết cấu hoàn toàn bằng hệ thống chốt và mộng gỗ, để có thể lắp ráp và tháo gỡ dễ dàng. Nhà rường là một tác phẩm nghệ thuật, là một phần tinh hoa kiến trúc cần phải gìn giữ, bảo tồn trong mạch nguồn văn hóa của Huế, một vẻ đẹp để nhớ về Huế xưa. “Vua chúa ở nhà rường. Hoàng thân quốc thích ở nhà rường. Quan lại ở nhà rường, người giàu ở nhà rường. Phật và thánh ở nhà rường. Ma quỷ cũng ở nhà rường. Ông bà tổ tiên ở nhà rường. Con cháu cũng ở nhà rường. Nhà rường vẫn là đặc trưng của kiến trúc, văn hóa Huế một thời xưa cũ.” - Nhà nghiên cứu Chu Sơn đã khẳng định như thế.

Tôi không còn là áng mây phiêu diêu khắp núi ngàn sông thẳm. Về đây nghe tiếng mọt thở than trong căn nhà im vắng, nghe lá ngoài vườn xôn xao khúc nhạc xanh. Nghe ai đó kể chuyện ngày xưa. Có gì trong ngăn kéo ký ức, khi nhịp đập thực tại cũng ngân vỡ từ bao giờ. Những trang sách ố màu năm tháng bên chiếc tù và xa hồi chiến trận. Cán cân cũng bất lực đong đếm buồn vui, được mất. Thôi thì lấy phích nước chêm thêm ấm trà đối ẩm, bật radio rè rè tiếng nói một thời xanh. Những kẻ sĩ bạc đầu hương khói, ngậm ngùi nhìn con nước nổi trôi. Nào ai giăng tình bên bến cũ, bỏ mặc một người ngồi vớt mộng trăm năm. Kim Long, cứ nhớ lại lên, nhuộm lại trái tim xanh màu vĩnh cửu.

Mùa hạ ở những con đường vắng trong thành phố, cây dại thi nhau mọc đầy, trổ màu tím mơ của hoa trinh nữ, màu rực rỡ của loài ngũ sắc, màu trắng tinh khôi của xuyến chi dọc lối mòn khuất lấp, bên mảnh đất trống, không người ở và bên trên bờ tường cổ Kinh thành. Lân la, cây bò trên đống gạch hoang phế, nhuộm lên tấm ngói lưu li vàng màu hoa dại. Nhịp hè xao xuyến nhánh bằng lăng trổ hoa tím biếc, ngây thơ vươn ra giữa lòng đường đông người qua lại trên đường Hà Nội, Phạm Hồng Thái. Đó là thứ màu Chàm xưa, màu cô gái buồn thiu tâm hồn vũ nữ gắn lên gạch tháp hình ngọn Mê Ru, màu làm mát dịu hồn người trên phố. Chợt nhớ lối về dĩ vãng phía đô thành ngựa xe dập dìu, cờ phướn rực trời trong nắng sắc kinh đô. Hồn hoài cổ bỗng dưng nhẹ thênh, miên man bám vào bờ sen nở dập dìu mặt nước Ngự Hà. Làm sao quên đường những ngày nắng vàng trên lăng Minh Mạng. Nắng vương trên màu cửa thếp, le lói sáng một vùng không gian chìm trong u tịch. Nghe lá thông rơi ngoài thềm xa, nghe cánh sen nở thầm thì trên mặt hồ Trừng Minh chưa phai mộng cũ. Màu xanh và vô vàn sắc màu của mùa hè như những chiếc dù treo ngược gợi nhớ về bóng mưa bay ngược. Đi dưới tháng ngày nhiều màu sắc cũng là cách vẽ lại những buồn vui. Dù rằng tất cả mọi thứ xung quanh chúng ta là hợp thể của nhiều thứ màu sắc khác nhau. Khi ta nhìn thấy một số màu sắc nhất định, những cảm xúc khác nhau sẽ phát triển từ những màu sắc biểu hiện đó. Màu sắc mô tả nhiều cảm giác, tâm trạng và suy nghĩ của chúng ta khi đối diện với các tình thái của đời sống. Ở một chiều kích khác, có thể nói màu sắc đã kích thích tâm trí chúng ta như mùa hè này đã chạm vào cõi hoang vắng của tôi vậy. Màu sắc trong tâm lý học dùng để phân tích các khả năng nhận thức, kiểm chứng độ chính xác của thông tin, cảm xúc và là một liệu pháp tâm lý giúp ích cho một số người chọn các màu yêu thích để cân bằng cảm xúc, bình tĩnh trước các áp lực cuộc sống. Dĩ nhiên với màu sắc của bức tranh xứ Huế vào hạ, chúng ta có thể có được cảm giác yên bình, trong lành và khởi sự của nhiều hy vọng, yêu thương.

Giữa mùa hè, con đường “phượng bay mù không lối vào” đẹp u buồn. Ngày xưa, người nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài ca tình lãng bằng đôi mắt nghệ sĩ bao dung bên con đường hoa phượng. Giờ đây màu hoa bị át đi một tí bởi sắc vàng của điệp, màu ngát xanh của hàng cây si, long não… chen nhịp bên đường. Phượng bay về xa xăm, rơi vào bể khứ bềnh bồng. Khách qua đường dừng chân ghé lại bên quán nước vỉa hè. Cây lung lay gọi nàng gió đến bông đùa trưa nóng. Gió từ sông Hương thổi lên mát rượi hồn phong sương trĩu gánh mảnh tình trong. Nhẹ nhàng nhìn lên màu trời xanh biếc, phong sương nhuộm đầu lữ thứ.

Đây đó tiếng chim ngân ca trên hàng cây xanh mát gọi mời. Tiếng chim vút cao qua Kỳ Đài, dừng lại bên Ngọ Môn rồi líu lo ca hát trong vườn Cơ Hạ. Bốn bề yên tĩnh, chỉ có âm thanh thiên nhiên réo rắt căng ra vỗ về ban trưa khoảng vắng. Tiếng hót tù túng của những chú chim bị nhốt trong lồng. Chiếc lồng chật hẹp không giữ được hồn thiên nhiên bay bổng theo tiếng gọi hè. Tôi ước gì có thật nhiều tiền để mua hết những chú chim, thả chúng bay về với cội nguồn ngày hạ. Và thả bay bao hồn lang bạt về đâu giữa nắng trưa ướt đẫm giọt mồ hôi lam lũ. Chim kêu hè, ve gọi hạ lửng lơ trong thinh không vắng lặng. Tôi đưa em về trên con đường phượng bay, lướt qua hàng cây xanh xanh, đã thấy mùa rộn rã trong lòng Thành Nội ngập mùa hạ dâng.

Giữa tháng Bảy, những đám mây con trôi chầm chậm, lấp dần ánh nắng đang cố nhoài mình trên cao. Chúng tụ họp lại thành từng mảng trắng đục rồi ôm nhau, thầm thì trên nền trời đang dần quánh lại, che mất đi khoảng thiên thanh vạn tuổi. Đây đó lảnh lót những tiếng chim khuyên, chào mào và cả những chú sáo tinh nghịch thi nhau hót nhập nhành trên ngọn cây thị già. Đã bao năm ngậm thở chút bụi bặm thời gian, cây thị chẳng thấy bị lũ chim quấy rầy bởi thứ âm thanh réo rắt, náo động phá tan cả một bể không gian rầm rì trong tĩnh lặng. Tiếng ồn ào tạo nên chút xáo động nho nhỏ, vui tai làm tôi ngơ ngác giật mình. Mở mắt. Có ai gọi? Giấc mơ ban trưa yên ả hãy còn đọng lại trong tôi lờ mờ một khuôn mặt bé xinh, ngây thơ của thuở nào non dại. Thoáng thấy một mái tóc buông lơi hồn nhiên, chiếc cài tóc dát ngang vầng trán mịn màng, cong cong hai hàng mi dài xa vắng.

Khẽ đẩy nhẹ ô cửa nhỏ, tôi nhìn ra gò đất màu xanh. Kia, cây thị, một mình nó cùng tháng năm, đứng lẻ loi trên gò đất nổi, giữa khóm tre làng và những hàng cây dại. Hẳn có một sự thỏa thuận, hay ít ra là lời cầu xin của đám cây đủ chủng loại, thị kia mới cho chúng chen chúc xung quanh gò để tồn tại. Lòng cảm thông nhân ái đã cứu rỗi những sinh linh yếu ớt, mỏng manh đương cần sự che chở của thị già. Đây đó vài ngọn sầu đông, dăm ba cây phượng hoe hoe đỏ mấy bông hoa cuối mùa. Tôi chợt thương xót mùa hè quá. Mới đây thôi còn rầu rĩ của đám ve sầu, lốm đốm lửa cháy trên cành phượng chỉ độc một màu. Cuối tháng Bảy rồi, tôi ngửi thấy một mùi hương vừa là lạ vừa quen quen, huyền hoặc và rất dịu. Nhớ ra mùa thị chín đã bắt đầu. Kia, quả bói đã nhú ra vàng ươm lên những ngọn đèn vàng đó thắp sáng lên cho những chiếc lá xanh thầm lặng.

Độ cuối tháng Bảy, không khí của cái xóm nhỏ, nằm khuất trong một con hẻm xa tít phố thị và cách biệt cả những cánh đồng thôn quê xanh rì, màu mỡ, tự dưng có một sự khang khác đặc biệt. Bao nỗi tất bật lo toan mà từng gia đình ở đây đang gánh vác cái cơ nghiệp cồng kềnh trăm mối, cũng vơi đi khi có một làn gió nhẹ thoảng qua. Tôi để ý một mùi hương ngan ngát, trộn lẫn mùi trái chuối ba lùn chín rục, mùi nồng nồng tựa hương sầu đông mùa hoa nở và mùi tinh khiết, thơm tho của hoa huệ ngày rằm. Cả xóm nhỏ bừng tỉnh, ngây ngất trong hương say, có chút gì đó hư hư thực thực xen lẫn trong cuộc sống tầm thường, một sợi chỉ vô hình đang cố níu kéo, có khi làm căng ra những tâm hồn đã lâu lắm chưa được mở. Khoảnh khắc đó khiến người ta quên đi ngay cuộc sống bon chen, đầy sầu muộn. Chỉ cần một nhịp hít thở, hương thị sẽ tràn vào, căng đầy lồng ngực. Hương thị sẽ đến với ta dìu dịu, trong những trưa hè rực lửa hay những đêm trăng rền rĩ của bạt ngàn chuyện sống. Tự dưng thấy đời thật nhẹ! Người lớn thì trầm trồ cho cái phút giây ban đầu hơi ngỡ ngàng, là lạ, gợi lại một thời đã qua gắn với hương thị quyến rũ. Trẻ con lại tiếp tục tái diễn trò của người lớn năm xưa, dưới gốc thị bằng niềm vui thích và sự say mê tận hưởng thứ quả và hương của trời đất trong cái vườn cổ tích vấn vương, đầy níu kéo. Nghiệm ra, có những mùi hương gợi nhớ một thoáng êm đềm của quá khứ, ru ta trong giấc nồng êm đẹp và vĩnh cửu bảo tồn những kỷ niệm thuở xửa xưa như một hành trang tuệ giác cho bao tâm hồn vọng cảm.

Thị ấy đã bao năm đứng vững chãi trên một nền đá khá chông chênh mà chắc thị đã đè bẹp chúng theo tháng năm bởi sức lực của những cái rễ khỏe, ôm trọn, chồng nổi lên lớp đá khá nặng nề, to tướng. Tuổi lão niên, già hơn bất cứ người nào trong xóm đã tạo nên thị một tấm thân đùng đùng, ít ra cũng chứa nổi ba cái chuông chùa cùng một lúc. Thân thị rỗng, có một lỗ cửa khá lớn, nhìn sâu hun hút như một cái hang đen ngòm. Lỗ ấy bị người ta đục bỏ, đốt lửa. Vết than cháy còn in rõ trên thân và in lên trên những khuôn mặt, những chiếc áo của cậu bé con tinh nghịch lỡ làng thám hiểm cái hang cây. In cả lên mặt tôi và một khuôn mặt xinh xinh của cô bé xóm bên ngày ngày vẫn rủ nhau ra nhặt thị vàng chín rụng. Có những ngày mưa phủ bạc cả một vùng, trùm lên cây thị một màn lưới nước trắng xóa, đè những tán lá xanh và những chùm quả vàng mọng. Cô bé ấy và tôi dầm trong mưa ướt, chạy đến ngồi bên gốc thị và nhặt trái chín bị mưa gió quật rơi khỏi cành cây yếu ớt. Bé nhặt đủ một túi nhỏ đem về tặng mẹ và treo một chùm nhỏ trong phòng để lấy hương. Tôi cũng làm theo và tặng luôn bé một chùm thị tràm nho nhỏ nhưng đã rộ vàng, thơm phức. Cô bé cám ơn và nhặt tiếp bông thị vừa rơi xuống, màu trắng tinh khiết bị nhuốm bẩn bởi dòng nước mưa đục ngầu. Cô bé cười bảo rằng hoa thị đẹp. Tôi phải cố công nhặt nhạnh suốt từ sáng sớm đến trưa hôm sau đủ một vòng đeo cổ trắng tinh màu hoa thị. Cô bé đeo lên và hôn nhẹ lên thân thị cùng với nụ cười trao tôi thay lòng cảm ơn mà tôi đã nhắc khéo là không cần đến.

Tôi chỉ nhớ… Một cơn mưa đầu mùa lại đến vội xóa tan bầu hoài niệm. Ở ô cửa nhà tôi, dù xa lắm tôi vẫn trông thấy chiếc vòng hoa thị nằm kia, vắt vẻo trên một cành non gần mặt đất. Những hoa thị trắng, thơm thơm như quả thị đang rơi. Lặng yên, tôi cố hít thở thật sâu mùi hương bao năm nuôi tôi khôn lớn.

*

Cho đến bây giờ, tôi vẫn thích cái cảm giác ngắm bóng chiều từ từ đổ xuống thành Huế từ không gian một quán cà phê nhỏ nằm mặt sau Đại Nội, quán Chiều. Khi những ánh tà dương thưa thớt dần trên những hàng cây, mặt đường, vẻ u uẩn của lầu Tứ Phương Vô Sự trước mặt Chiều dấy lên nhiều nốt lặng. Khoảnh khắc đó đồng hiện cùng những bản nhạc tiền chiến dìu dắt lòng người. Quán nằm gọn ngay đoạn giao giữa hai con phố Đặng Thái Thân và Phùng Hưng, dáng vẻ thâm nâu, lúp xúp, nơi bóng tối toát lên vẻ kiêu hãnh của nó. Khi đêm xuống, những ngọn nến lung linh đổ bóng khung cửa sổ, le lói sáng từng chiếc bàn thấp, sóng sánh giọt cà phê của những nỗi niềm. Tôi ngồi xuống đây, bên những bạn hiền, bên giọt cà phê rỉ ri nhỏ xuống đáy cốc, biến màu trong suốt thủy tinh sang màu đen huyền của một đam mê chiều. Cà phê tí tách va vào nỗi lòng người luyến cảnh hoàng hôn một thoáng xao động nhỏ. Một màn mưa vàng lá điệp buông xuống vỉa hè. Chiều. Chiều tím bên sông. Thành quách nhạt mờ theo vết ố vàng của vòm mây. Bàn tay ai nắm lại, mừng rỡ, rồi ngân nga câu chuyện bạn hữu muôn đời. Dòng người ngược xuôi trên phố, mang theo nặng gánh lo toan, bàng hoàng đứng ngắm hoàng hôn đang đến gần hàng cây. Giọt nắng rơi vào cốc cà phê, pha vàng màu huyền. Màu khói lam nhả vào nền xanh tán lá. Mắt người đăm đắm biết bao dòng suy nghĩ chạy qua rồi thả vèo cho trôi nổi vào xa xăm. Điếu thuốc tàn, châm thêm điếu nữa, đốt những suy tư cháy theo khói thuốc. Khói bay, tiếng thở dài của một ngày đánh nhịp trên lối về. Có những mạch đời diễu qua trước mắt, chảy lâm râm bọt bèo khổ ải. Tiếng cười trên phố, giọt mồ hôi lam lũ lề đường, dòng miên man hạnh phúc chảy loanh quanh trong chiều tím. Ai đưa sợi dây diều nâng lên những khát vọng nổi trôi và những giấc mơ hóa bão.

Thành phố lên đèn, tôi lại lang thang qua con đường hun hút màu đêm, tưởng chừng đã nuốt chửng vào lòng nó tất cả ký ức của một Kinh đô cũ. Những người bạn mới quen rảo bước trên con đường đẫm hơi nước ngỡ như dẫm chân lên từng vết thời gian khắc khoải, mờ đục. Từng hàng rào âm u lướt qua, một khu vườn yên lặng và ở điểm cuối trơ ra một ngôi nhà ba gian mộc mạc còn sáng đèn leo lét. Những chiếc bóng thầm lặng ngồi quây quần bên nhau mặc kệ trời vừa làm cơn mưa đêm thì thầm. Tôi được mời ngồi xuống một trong những chiếc chiếu trải trên nền đất với dăm ba đĩa bánh, ánh nến soi sóng sánh từng cốc cà phê đen. Một người bạn trẻ mặc chiếc áo kaki, gương mặt thanh tú sau cặp kính trắng ngồi chiếu giữa ôm đàn. Tôi đang bận rộn với những ý nghĩ sắp xếp lại tuổi trẻ sau những bộn bề, sắp xếp lại từng trang bản thảo rơi vãi đâu đó trên cọng tóc sâu. Rồi bộn bề, tóc sâu cũng chìm lắng ở một góc nào đó trong tâm trí khi các bạn hát. Một thế giới khác đã hiện ra, đẩy người nghe nổi trôi bồng bềnh trên sóng nước, rồi lăn như một viên đá hồn nhiên trên đồi cao. Âm thanh lê thê kéo theo những ca từ dìm nghiệt ngã của đời sống thường nhật vào vũng rã rời. Khổ đau đóng băng. Hân hoan tỏa nắng. Những người trẻ chăm chú lắng nghe quanh ánh nến chập chờn, tưởng hình tưởng bóng lung linh kia là cái tôi lạc trôi đã được tìm thấy. Tôi bị quyến rũ trong tiếng guitar ấm trầm, một giọng hát trầm khàn, như tiếng gió qua khe đá trên núi cao, như tiếng thác đổ xuống từ tầng trời Đao Lợi. Thứ âm nhạc đó đích thị dành cho tuổi trẻ mờ phai sau biết bao trận pháo kích của kỹ nghệ, những trò giải trí tầm phào, một lối sống lụy vật chất, một tinh thần phế bạc như bộ mặt của thời đại. Tôi ra vườn, hít một hơi thở sâu như cố lưu trọn cái không khí hiếm có của một khu vườn, một căn nhà và những người bạn đang níu kéo một điều gì đó không thể gọi tên trong giấc xanh của mình. Đâu đó trong góc vườn, một tiếng ve trở mình, cất tiếng sầu lạc lỏng, bất thường trong đêm tối. Ấy là hè cũng vội về trong đêm.

Sớm mai, nắng rọi trên sông vắng, lòng rỗng mênh mông. Dòng nước buồn thở tiếng ăn năn, lặng trôi về cố xứ. Ôm màu xanh vĩnh cửu vào lòng, tôi lật tung từng kỷ niệm còn niêm màu hoa dại. Rồi một mai lên chốn sơn khê, đón mây trắng về hội thung xanh. Dưới cội trang già, nghe chim gọi ngày da diết. Nếu còn ôm mộng du tử hỏi sao chân không làm đau xước đám cỏ trai mơ mỏng. Cứ đi về nơi ấy, để nghe ngọn gió hát ca, thấy suối chảy qua bàn chân mát lạnh.

L.V.T.G  
(TCSH376/06-2020)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.

  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.