Màu cỏ trong tiết thanh minh

09:30 19/02/2013

MAI VĂN HOAN

Nhà thơ Hồ Chí Minh từng viết: “Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ” (Thơ xưa yêu cảnh thiên thiên đẹp). Có thể nói thiên nhiên tràn ngập trong thơ xưa - đặc biệt là mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông… Riêng về cỏ, các nhà thơ xưa rất ít nhắc đến.

Ảnh: internet

Trong “Quốc âm thi tập” chỉ hai lần Nguyễn Trãi nhắc đến cỏ: “Hoa thường hay héo cỏ thường tươi” và “Đìa thanh phát cỏ ươm sen”. Cỏ được Ức Trai dùng để ám chỉ bọn người bất tài, xu nịnh hay là thứ cần phải vứt bỏ. Nguyễn Đình Chiểu thì so sánh: “Ghét thói mạt như nhà nông ghét cỏ” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc). Người đời vẫn thường dùng cỏ để mạt sát nhau “đồ cỏ rác!”. Ấy thế mà cái thứ cỏ rác, cái thứ không ra gì ấy vào tay Nguyễn Du lại rất có giá trị. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng cỏ như một phương tiện nghệ thuật hết sức linh hoạt. Khi thì nhà thơ dùng cỏ để nói đến thân phận hèn mọn: “Rộng thương cỏ nội, hoa hèn”. Khi thì nhà thơ dùng cỏ để diễn tả tâm trạng hoang mang: “Buồn trông nội cỏ dầu dầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Khi thì nhà thơ dùng cỏ để gợi lên cảnh hoang phế: “Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày”... Ngay cả khi trong câu thơ không hề có một chữ cỏ nào người đọc cũng hình dung thấy cỏ: “Hài văn lần bước dặm xanh/ Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao. Chỉ tính riêng trong tiết thanh minh đã có đến bốn lần Nguyễn Du tả cỏ với những gam màu rất khác nhau.


Hàng năm, vào tiết tháng ba đất trời ấm áp mát mẻ, cây cối đâm chồi nẩy lộc. Tiết tháng ba cũng là dịp “lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Nguyễn Du diễn tả hết sức sinh động cái không khí náo nức, vui vẻ ấy: “Gần xa nô nức yến anh/ Ngựa xe như nước, áo quần như nêm...”. Để thể hiện sức sống mãnh liệt của mùa xuân và tâm trạng phấn chấn, háo hức của các “tài tử, giai nhân” nhà thơ đặc tả màu cỏ: “Cỏ non xanh rợn chân trời”. Có bản chép “Cỏ non xanh tận chân trời”, đẹp thì đẹp nhưng tĩnh quá, không thật phù hợp với khung cảnh “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”. “Cỏ non xanh rợn chân trời” sống động hơn, tràn trề sức sống hơn.

Điều làm tôi hết sức băn khoăn là tại vì sao giữa một vùng “cỏ non xanh rợn chân trời” như thế trên mộ nàng Đạm Tiên lại: “Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng, nửa xanh”? Hay vì mộ Đạm Tiên không ai chăm sóc nên cỏ mọc loang lổ? Hay vì mộ Đạm Tiên “sè sè nấm đất bên đường” nên bị trẻ chăn trâu dẫm xéo lên? Một bạn đồng nghiệp của tôi quả quyết: đấy là cái màu mang tính tượng trưng do nhà thơ tưởng tượng ra cho phù hợp với số phận bất hạnh của người nằm dưới mộ. Tôi tìm đọc bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, thì chỉ thấy đoạn này Thanh Tâm Tài Nhân kể và thuật lại các sự việc chứ không hề tả cảnh như Nguyễn Du. Màu cỏ trên mộ Đạm Tiên đúng là màu do cụ Nguyễn Tiên Điền tưởng tượng ra. Song tưởng tượng của nhà thơ bao giờ cũng dựa trên một thực tế nào đó. Không thể giữa một vùng “cỏ non xanh rợn chân trời” như thế, mộ Đạm Tiên lại có riêng một màu cỏ? Nỗi băn khoăn ấy của tôi mãi gần đây mới được giải tỏa. Rất tình cờ, vào đúng thời điểm “tà tà bóng ngả về tây”, đi ngang qua nghĩa trang thành phố tôi chợt nhìn thấy cỏ trên các ngôi mộ loang lổ chỗ vàng, chỗ xanh. Thì ra đó là hiện tượng phản quang! Ở những chỗ có ánh nắng chiếu vào cỏ có màu vàng. Màu vàng của cỏ thực chất là màu của nắng. Phải chăng nhà thơ đã dựa vào hiện tượng phản quang để tưởng tượng ra màu cỏ trên ngôi mộ người xấu số? Và phải chăng cũng dựa vào hiện tượng phản quang mà Nguyễn Du đã biến đổi thêm một lần nữa màu cỏ trong tiết thanh minh? Đó là khi bóng đã tà. Nghĩa là mặt trời sắp lặn hắt vàng lên cả một vùng. Khoảng thời gian từ “tà tà bóng ngả về tây” đến “bóng tà” đủ để cho Kiều nghe Vương Quan kể về cuộc đời ngắn ngủi của nàng Đạm Tiên, vừa đủ cho Kiều khấn vái, vừa đủ cho Kiều “đặt cỏ trước mồ bước ra”. Trước mắt Kiều bây giờ là “một vùng cỏ áy bóng tà”. Theo chú thích của ông Nguyễn Thạch Giang: “Cỏ áy là màu cỏ úa vàng như màu cứt ngựa” (Truyện Kiều - Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1976). Theo tôi, cần phải chú thích rõ hơn: Màu cỏ úa vàng trong câu thơ này là do hiện tượng phản quang. Thi sĩ Tản Đà cũng có câu thơ rất hay về hiện tượng phản quang này: “Trời tây ngả bóng tà dương/ Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha” (Thề non nước). Màu cỏ úa vàng trải trên diện rộng “một vùng” rất phù hợp với nỗi buồn man mác của nàng Kiều sau khi nghe kể về kiếp hồng nhan bạc mệnh. Nỗi buồn thấm đượm cả không gian, lan sang cây cỏ. Nguyễn Du đã lợi dụng hiện tượng phản quang, thay đổi màu cỏ để diễn tả tâm trạng nhân vật.

Cũng là màu cỏ trong tiết thanh minh nhưng khi Kim Trọng “Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi” thì chỉ thấy “Một vùng cỏ mọc xanh rì!” Cỏ bây giờ không xanh rợn chân trời, không nửa vàng nửa xanh, không úa vàng mà xanh rì. Xanh rì là màu xanh đậm và rậm rịt. Màu xanh rì của cỏ đã che khuất hết. Chàng Kim không thể nào tìm lại được hình bóng người đẹp giữa cái đồng cỏ xanh rì ấy.

Không chỉ tả màu cỏ trong tiết thanh minh, Nguyễn Du còn tả màu cỏ trong đêm mùa thu, khi Kiều trốn theo Sở Khanh: “Lối mòn cỏ nhạt màu sương/ Lòng quê đi một bước đường một đau. “Cỏ nhạt màu sương” hay chính nước mắt nàng Kiều làm nhạt nhòa màu cỏ?

Rõ ràng Nguyễn Du đã sử dụng cỏ như một phương tiện nghệ thuật hết sức mầu nhiệm. Cỏ qua ngòi bút thiên tài của nhà thơ biến hóa khôn lường. Màu cỏ vừa là màu không gian vừa là màu thời gian vừa là màu của tâm trạng. Chỉ riêng điều này, Nguyễn Du cũng xứng đáng là một bậc thầy. Các nhà thơ hiện đại sau này có những câu thơ khá hay về cỏ như: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời” (Hàn Mặc Tử), “Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh” (Nguyễn Bính), “Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên” (Chế Lan Viên)... đều ảnh hưởng ít nhiều cách nói về cỏ hết sức độc đáo của Nguyễn Du.

M.V.H
(SH288/02-13)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NHỤY NGUYÊN
                     Bút ký

    Bao Vinh hôm nay nếu soi vào lịch sử thật chẳng xứng với danh hiệu là khu thương mại lớn của đất kinh kỳ vào thế kỷ XIX.

  • Sông Hương xứ Huế đã bao đời miệt mài làm nên những nét tinh tế và độc đáo của văn hóa Việt Nam. Đó là dòng chảy giao hòa và dung hợp của nét văn hóa truyền thống dân gian với văn hóa cung đình với những con người Huế với những nét đặc trưng không lẫn với bất cứ nơi nào về giọng nói, tiếng cười, điệu hò và những món ăn Huế hấp dẫn.

     

  • ILIA ÊRENBUA
            Trích hồi ký

    Tôi đã viết, tôi đón đợi đại hội các nhà văn Xô-viết hệt như một cô gái đón đợi buổi vũ hội đầu tiên trong cuộc đời. Nhiều trong số những niềm hy vọng ngây thơ của tôi, có thể đã không được thực hiện, nhưng đại hội vẫn còn đọng lại trong ký ức của tôi như một ngày hội lớn, kỳ lạ.

  • HOÀNG LONG 

    Đây là một tiểu thuyết cực tiểu, gồm năm thiên. Và không có tên. Cũng như mọi thứ trên đời này đều như vậy. Tự thân không có tên. Chúng ta đặt tên cho chúng và ban cho vạn vật một ý nghĩa nào đó với chúng ta. Tất cả là do tâm tạo tác. Cái vọng tưởng đó của ta chẳng liên quan gì đến thế giới. Vì thế giới vận hành trong sự không tên.

  • NHÂN KỶ NIỆM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27/7/2013

    HỒNG NHU
              Bút ký

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                            

    Vừa mới hôm nào nhận thư Phong Sơn báo tin năm nay sẽ được mùa lớn. Lúa phơi màu rất đẹp.

  • VÕ NGỌC LAN

    Đi trong thành phố xanh này, ở đâu cũng thấy một màu xanh dịu mát. Có lẽ nhờ thế mà mưa nắng cứ đến rồi đi, cỏ hoa cứ bốn mùa làm xanh thêm cuộc hành trình mưa nắng.

  • BẢO CƯỜNG 

    Tiếng sáo làm bạn với con người ngay từ tuổi ấu thơ. Tiếng sáo gợi hồn quê hương dân tộc. Chỉ với một ống trúc giản dị, mục đồng đã chế tạo thành một ống sáo để thổi. Những ngày lùa trâu ra đồng các em ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo nghe réo rắt, vang xa đến tận cuối làng.

  • NGUYỄN KIM CƯƠNG  

    Những ngày đầu Tết Mậu Thân 1968, quân dân ta tấn công và nổi dậy khắp các thành thị miền Nam, buộc lực lượng Mỹ và quân đội Sài Gòn phải phân tán đối phó.

  • CÁI NẾT  

    Trên cánh đồng lúa Mụ Dâu ngút ngàn, lạ thay, người ta không thấy màu xanh non của mạ, chỉ thấy một rừng hoa dài đến tận chân trời…

  • NGUYỄN THỊ THÁI  

    Bao lâu rồi dã quỳ nồng nhiệt, dã quỳ rủ rê, dã quỳ khắc khoải, dã quỳ đớn đau. Tây Nguyên thấp thỏm màu vàng, mỗi người có một lần đợi mong, người thiếu phụ mang trong ngực tháng mười mơ ước, nhập vào sắc hoa hoang dại mênh mang thương và nhớ.

  • NGUYỄN DƯ

    Đi đâu mà vội mà vàng
    Mà vướng phải hố, mà quàng phải xe

    Ngày nay, nhiều người sợ đi ngoài đường. Khác ngày xưa…

  • NGUYỄN TRƯƠNG KHÁNH THI

    Chiều hôm ấy mưa to lắm…
    Được cô cho nghỉ sớm, tôi rời lớp học thêm vật lý và đi dạo cùng đứa bạn thân. Thấy lề đường ướt sũng mà trái tim tôi cũng ướt theo. Nhìn qua thấy đứa bạn đang nói chuyện điện thoại với cha của nó… thì ra, hơn nửa tuổi thơ này… tôi đã không có cha! Trời hôm nay thật lạnh nhưng chỉ lạnh bằng một góc nào thật nhỏ của tháng ngày trước, cái ngày mà cha tôi ra đi… nỡ để lại trước mắt đứa con gái bé nhỏ của ông một cái xác không hồn…

  • HOÀNG HỮU CÁC

    Tiếng chân giày của trung tá Nguyễn Đình Sơn bước bồn chồn trên nền đất ẩm của căn hầm kiên cố dùng làm sở chỉ huy của đoàn B15 bộ binh là âm thanh duy nhất tôi nghe được ở đây trong chiều hôm nay.

  • THÁI KIM LAN

    Con thương yêu,
    Mẹ đang ở Huế, ngồi trong nhà của ngoại viết thư cho con. Con ơi, rời mùa Thu Munich về đây, lại thấy Huế cũng Thu.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ
                  bút ký

    Hồ Tịnh Tâm lại đã đến mùa sen nở. Những cánh sen trắng khiêm tốn lấp ló giữa bạt ngàn lá xanh dịu. Mới đó, năm ngoái, sau cơn bão số 8, ngôi nhà lục bát trên hòn đảo giữa hồ bị đổ nát, cảnh hồ thật tiều tụy. Quy luật xoay vần của thiên nhiên quả là kỳ diệu.

  • TỐNG TRẦN TÙNG

    Xin được giải thích ngay cụm từ “đi mót” ở đây. Theo từ điển tiếng Việt thì nghĩa thứ hai của từ mót là “nhặt nhạnh của để rơi vãi hoặc bỏ sót”.  Tuy vậy, ở quê tôi, khi nói đến đi mót thì người ta nghĩ ngay đến đi mót ngày mùa, mùa gặt lúa, mùa cày khoai, mùa nhổ lạc…

  • THÍCH CHƠN THIỆN
                            Tùy bút

    Kinh Pháp Cú (Dhammapada), một bản kinh phổ biến nhất trong các nước Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền (Phật giáo thế giới) ghi: “Những người có đủ 36 dòng ái dục, họ mạnh mẽ rong ruỗi theo dục cảnh, người có tâm tà kiến hằng bị những tư tưởng ái dục làm trôi giạt hoài”. (câu 339)

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH  

    Trên bàn tay Phật pháp vô biên hẳn còn nhiều hướng đi khác tích cực hơn và Tạ Thị Ngọc Thảo đã chọn phương pháp Vòng Thời Gian (hay Đạo pháp Calachakra) trong Mật giáo.

  • VIỆT HÙNG

    “Trên đỉnh Trường Sơn, ta gặp nhau giữa đường đi chiến đấu, anh giải phóng quân Lào biên giới đẹp sao...”*- Câu hát từ thời chống Mỹ, đã trở nên xa xăm, song giờ đây, thỉnh thoảng nó vẫn vang lên trên các sóng phát thanh...