Lý thuyết Cácnavan hoá của M.Bakhtin và tư duy tiểu thuyết hiện đại

14:34 09/09/2008
TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...

Nhưng đáng tiếc là nhiều tư tưởng quan trọng của Bakhtin cho đến nay vẫn chưa được giới lý luận, phê bình quan tâm thích đáng, đây đó còn có những lời hạ thấp ý nghĩa của ông, đại loại như tư tưởng Cácnavan hoá của Bakhtin vận dụng vào nước ta không hợp với đặc trưng văn hoá châu Á, hoặc vận dụng các tư tưởng đó sẽ làm giảm sút tính chất dân tộc của lý luận văn học, rằng nên quay về khai thác các kiến giải lý luận văn học truyền thống của ông cha để xây dựng một nền lý luận văn học hiện đại.v.v... và. .v.v...
Chúng tôi tán thành việc khai thác, phát huy các tư tưởng lý luận truyền thống của dân tộc trong bối cảnh hôm nay, nhưng cho rằng việc đó chỉ có ý nghĩa khi biết khai thác các yếu tố hiện đại trong truyền thống (Xin xem Truyền thống dân tộc và tính hiện đại của truyền thống trong sách Văn học và thời gian, 2002). Như vậy, người ta chỉ thực sự hiểu các giá trị cập nhật của truyền thống chừng nào có hiểu biết thấu đáo các tư tưởng lý luận hiện đại. Gần đây tôi tình cờ đọc được một công trình nước ngoài có nhan đề "Nho gia và tư tưởng tự do" (10 - 2001), nó làm nhớ lại tư tưởng trong bài viết của tôi: Tư tưởng tự do trong truyền thống văn học cổ Việt (TC. Văn học, số 1 - 2001, in lại trong Văn học và thời gian). Chính vì như vậy mà tôi nghĩ cần phải tìm hiểu các tư tưởng lý luận hiện đại để hiểu rõ hơn các giá trị văn học truyền thống của dân tộc ta, mà lý thuyết Cácnavan hoá của Bakhtin là một trong số đó.
Vậy Cácnavan là gì và Cácnavan hoá là gì? Cácnavan (lễ hội dân gian, lễ hội hoá trang kiểu Cácnavan, do khó dịch chính xác mà người ta thường để nguyên) theo Bakhtin, không chỉ đơn giản là lễ hội, mà là cuộc sống thứ hai của con người do các yếu tố khôi hài của dân chúng tạo thành. Vì sao mà có các lễ hội Cácnavan ấy, theo Bakhtin đó không phải do mục đích lao động hay tập dượt lao động, hay nhu cầu nghỉ ngơi tự nhiêncó tính chu kỳ của con người. Giải thích như thế thì khó tránh rơi vào xã hội học dung tục. Theo Bakhtin lễ hội Cácnavan trung đại đó là nhu cầu vượt khỏi cuộc sống nền nếp hàng ngày của tư tưởng tôn ty trật tự phong kiến, của chủ nghĩa cấm dục tăng lữ, nó nhằm làm mềm hoá những khuôn khổ cứng nhắc của các thiết chế xã hội đương thời. Do đó lễ hội Cácnavan là một phạm trù có ý nghĩa thế giới quan, một phạm trù văn hoá. Cácnavan có hai tính chất; một là tính thời gian. Cácnavan thường xảy ra các ngày lễ hội mùa màng hoặc các ngày lễ lịch sử trọng đại, tức là các thời điểm có sự đổi thay trong cuộc sống nó nâng đỡ sự đổi thay trong thế giới quan. Hai là tính không gian. Cácnavan thường diễn ra ở quảng trường, bãi chợ là những nơi không có trung tâm, không có quyền uy, mọi người đều có thể tham gia tự do với khát vọng dân chủ nguyên thuỷ. Các nghi thức và trò chơi trong lễ hội Cácnavan đóng vai trò rất quan trọng trọng việc tạo nên cuộc sống thứ hai cho con người, chẳng hạn nghi thức tấn phong, hạ bệ, sự xúc tiếp suồng sã, sự báng bổ, các trò phỏng nhại, trò hề... đã thực sự tạo nên "cuộc sống thứ hai". Nhưng đây chỉ là cuộc sống thứ hai phi quan phương bên rìa của cuộc sống thứ nhất thông thường.
Ý nghĩa của tư tưởng của Bakhtin không nằm ở bản thân các lễ hội Cácnavan, mà ở cách lý giải của ông về Cácnavan như một hiện tượng văn hoá có ý nghĩa thế giới quan, và từ cơ sở đó mà tìm đến một cách lý giải mới về tiểu thuyết và ngôn từ tiểu thuyết mà ông gọi là hiện tượng "Cácnavan hoá". Bakhtin hiểu Cácnavan hoá theo một nghĩa rất rộng: các nghi lễ, các trò chơi, các chuyện cười, các cách sống có tính chất Cácnavan hoá, nhằm chỉ cuộc sống thứ hai, phi quan phương, bên rìa, nhằm giúp con người tạo một khoảng tự do vượt khỏi tạm thời cuộc sống nền nếp, chặt chẽ trong các thiết chế, thể chế xã hội thường nhật. Từ quan niệm Cácnavan hoá, Bakhtin đưa ra khái niệm "Văn học Cácnavan hoá" với các thể loại văn học nghiêm túc - buồn cười như thể đối thoại kiểu Sôcrát, thể trào phúng mênippê, thể tiểu thuyết phức điệu Doxtoíepxki, thể tiểu thuyết quái đản Rabơle... Từ đó mà Bakhtin đem đối lập tiểu thuyết với các thể loại sử thi. Nếu sử thi luôn ở trung tâm, mang tính chất quan phương thì tiểu thuyết là thể loại ở ngoài rìa, phi quan phương. Nếu sử thi luôn nghiêm trang thì tiểu thuyết luôn pha trộn sự cười nhạo, trào phúng. Nếu sử thi tiếp xúc cuộc sống theo lối trật tự, tôn ti, thì tiểu thuyết lại mở ra kiểu tiếp xúc suồng sã, thân mật. Nếu sử thi miêu tả những gì đã xong xuôi, hoàn tất, thì tiểu thuyết luôn luôn là không kết thúc, chưa xong xuôi. Nếu sử thi luôn sùng thượng quá khứ thì tiểu thuyết luôn hướng về hiện tại. Nếu sử thi luôn xác lập một khoảng cách cô định không thể vượt qua giữa người trần thuật và cuộc sống được thể hiện, thì tiểu thuyết lại xoá bỏ khoảng cách ấy. Nếu sử thi tạo ra khoảng cách và tôn tri trật tự của các thể loại thì tiểu thuyết đem hoà trộn chúng với nhau. Nếu sử thi luôn tuân theo các khuôn mẫu, thì tiểu tuyết luôn đổi mới chính bản thân mình...
Từ cách hiểu đó, ta thấy, nếu Cácnavan là hiện tượng lễ hội trung cổ  phương Tây, thì khái niệm Cácnavan hoá có thể giúp ta hiểu thêm về bản chất văn hoá của văn học, hiểu thêm các quy luật chung của văn học phương Đông. Theo tôi, mỗi tác phẩm văn học trong ý nghĩa hiện đại là một sản phẩm Cácnavan hoá phi quan phương nho nhỏ, tạo ra một cuộc sống thứ hai cho mỗi người, nó có không gian, thời gian riêng giúp người ta thoát khỏi tạm thời không - thời gian thực tại để sống trong tưởng tượng. Trong những khoảnh khắc tự do, phóng túng, suồng sã theo kiểu Cácnavan hoá ước lệ ấy con người được giải thoát, được nhìn thế giới theo một nhãn quan khác, nhiều chiều, được thoả mãn nhãn quan, được tích luỹ năng lượng để rồi trở lại cuộc sống thường nhật với một tinh thần sáng tạo mới. Do vậy, nếu thu hẹp tiểu thuyết vào phạm vi quan phương, đồng nhất tiểu thuyết vào sử thi tức là thu hẹp không gian văn hoá của con người, thu hẹp khả năng tích luỹ năng lượng tinh thần để sống thêm dồi dào và mạnh mẽ cho cuộc sống thực tại.
Ngôn từ nghệ thuật cũng là một tác phẩm có tính chất Cácnavan hoá. Trong văn học, ngôn từ thoát khỏi các qui tắc ngôn ngữ thông thường để sống một cuộc sống mới. Nó vượt khỏi cấu trúc chuẩn mực của ngôn ngữ để đi vào những kết hợp mới tự do mang tính thẩm mỹ. Chỉ đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du thôi ta cũng thấy cả một cácnavan tưng bừng của tiếng Việt. Những giọt tủi, giọt sầu, giọt hồng, giọt châu, giọt ngọc, những giấc tiên, giấc hoè, những dặm băng, dặm xanh, dặm hồng..., những câu thơ trốn chủ ngữ, những câu thơ đảo trang, những phá vỡ quy phạm để cấu tạo lại như kiểu: gió lá cành chim, nắng tủi mưa sầu, ăn gió nằm mưa, gió gác trăng sân, cười phấn cợt son, hồn rụng phách rời... không bao giờ ta thấy trong từ điển. Nếu không có một nhãn quan kiểu Cácnavan hoá như thế thì tiếng Việt làm sao lại có được cuộc sống lạ lùng như vậy để thể nghiệm các cung bậc,giới hạn của sáng tạo?
Nhìn vào lịch sử văn học Trung Quốc, những truyền kì, dã sử, những thoại bản, tiểu thuyết chương hồi... có bao giờ hiện diện trong hệ thống phân loại văn học quan phương? Suối hàng nghìn năm trời, chúng chỉ tồn tại ngoài rìa quan phương văn dĩ tải đạo.Chỉ mới vào đầu thế kỉ XX, chúng mới được xếp vào hệ thống thể loại văn học Trung Quốc. Trong văn học Việt Nam,những ngâm khúc, truyện Nôm, hát nói, thơ Nôm đừờng luật, truyện tiếu lâm...cũng chỉ được tồn tại bên rìa văn học chính thống viết bằng chữ Hán, và được mệnh danh là "nôm na mách qué" và bị cấm đoán, hạn chế. Chỉ sang đầu thế kỉ XX, chúng mới được đưa vào hệ thống thể loại văn học.
Xem thế đủ thấy cácnavan tuy là hiện tượng của phương Tây trung đại, nhưng cácnavan hoá là một khái niệm văn hoá hiện đại. Nếu hiểu được nó và biết vận dụng thì khái niệm đó sẽ góp phần soi sáng nhiều vấn đề văn học, bất kể là phương tây hay phương đông, đặc biệt là giúp ta hiểu thêm bản chất văn hoá của văn học và đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại
6-2002
T.Đ.S

(nguồn: TCSH số 165 - 11 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN ÁI NHÂNThật ra, những điều mà nhà văn, Đại tá Tôn Ái Nhân nêu ra dưới đây không hoàn toàn mới so với “búa rìu dư luận” từng giáng xuống đầu các nhà văn đương đại. Và, bản thân chúng tôi cũng không hoàn toàn đồng tình với tất thảy những sự kiện (kể cả những vấn đề nhạy cảm) mà ông đã “diễn đạt” trong 14 trang bản thảo gửi tới Tòa soạn. Chính vì vậy, chúng tôi đã xin phép được cắt đi gần nửa dung lượng, để “THẤT TRẢM SỚ” NHÀ VĂN đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng hơn. Nhân đây cũng muốn gửi tới tác giả lời xin lỗi chân thành, nếu như lưỡi kéo của Sông Hương hơi “ngọt”.

  • NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.

  • NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).

  • HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.