Ly kỳ những vị thạch quan ở Lăng Gia Long

08:55 27/01/2015

Từng lâm cảnh đầu rơi với thịt nát xương tan, người ta đồn rằng đây là những vị thần trấn yểm, bảo vệ giấc ngủ và gìn giữ kho báu mà triều thần an táng cùng Vua Gia Long dưới lòng cổ mộ!

Đò đưa khách sang sông Hương để vào Lăng Gia Long.

Hoàng cung thiên thu của Vua Gia Long cách Lăng Sọ - nơi an táng sọ Chúa Nguyễn Phúc Luân (phụ thân Vua Gia Long) gần 7km. Nằm bên này sông Hương, đường vào nhỏ hẹp, khó đi, xe ôtô không thể vào được, Lăng Gia Long nằm giữa núi Thiên Thọ, kiến trúc hùng tráng mang dáng dấp của vị võ vương.

Tại nơi an nghỉ ngàn đời của vị vua sáng lập triều Nguyễn này, bên cạnh chiếc sập gụ hàng trăm năm tuổi, chiếc lu sứ có tuổi đời trăm năm với "lý lịch" ly kỳ cùng những chuyện đậm tính huyền linh của bậc vua chúa ngày trước, điều khiến chúng tôi đặc biệt ấn tượng khi viếng "cung điện bất tử" của Vua Gia Long là hình ảnh các vị thạch quan đứng chầu trước lối vào huyền cung (mộ vua). Từng lâm cảnh đầu rơi với thịt nát xương tan, người ta đồn rằng đây là những vị thần trấn yểm, bảo vệ giấc ngủ và gìn giữ kho báu mà triều thần an táng cùng Vua Gia Long dưới lòng cổ mộ!

Từ bên này sông Hương (Huế), để qua đến bờ bên kia và từ đó phải đi thêm hơn 5km nữa mới đến được Lăng Gia Long, chúng tôi không có cách nào khác là phải lên đò vượt sông. Lúc đò chẻ nước, thấy nhóm học sinh đùa giỡn ầm ĩ, người lái đò tên Minh đã nghiêm mặt bảo phải giữ im lặng. Hỏi cớ sự, người lái đò "3 đời chèo chống" cho biết hơn trăm năm trước, triều đình Vua Minh Mạng đã ban lệnh những ai đi đò qua sông gần khu vực lăng tẩm của vua chúa và các bà hoàng triều Nguyễn phải giữ im lặng tránh kinh động giấc ngủ ngàn thu của các bậc tiên đế. Lật lại ghi chép của Nội các triều Nguyễn, mới thấy tâm tình kia của người lái đò không phải "chuyện nhảm".

Tháng 3/1839, Vua Minh Mạng (người kế vị Vua Gia Long) ban đạo dụ rằng: "Trong số các tôn lăng của hoàng triều, có nhiều lăng nằm gần bờ sông, tuy nhiên những người công của nhà nước, hay các thuyền thường trên sông khi ngang qua trước các tôn lăng này tự tiện hát hò hoặc gây huyên náo bất kính, điều này trái ngược với lòng tôn kính mà phải tuân thủ đối với những nơi tôn nghiêm này". Sau chỉ dụ ấy của vua, tương truyền người dân khi đi đò gần các khu vực tôn lăng đã luôn giữ im lặng và điều ấy đã được những người chèo đò sang sông Hương giữ thành nếp, thật là một mỹ tục lạ!



 Đò đưa khách sang sông Hương để vào Lăng Gia Long.


Đò cập bến, từ đây chúng tôi đi hơn 5km nữa mới đến khu vực Lăng Gia Long. Nơi an nghỉ của vị vua đầu triều Nguyễn đẹp như tranh vẽ, đường vào rợp bóng thông xanh. Lăng Gia Long là quần thể kiến trúc với nhiều đền đài, lăng tẩm của các thành viên quan trọng trong hoàng tộc, nhưng chính nhất là tẩm (mộ) vua và bà Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu (chính hậu Vua Gia Long), Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (thứ hậu Vua Gia Long), Lăng Thoại Thánh (thân mẫu Vua Gia Long)…

Tại điện Minh Thành - nơi thờ tự Vua Gia Long và chính hậu, chúng tôi được ông Hồ Trúc Sánh, một trong những người trông coi lăng vua bật mí nhiều chuyện ly kỳ liên quan đến quá trình xây dựng Lăng Gia Long. Chuyện rằng lúc còn tại vị, Vua Gia Long đã ban lệnh cho triều thần kiếm tìm nơi để xây lăng mộ cho mình. Người được giao trọng trách là ông Lê Duy Thanh, nhà phong thủy học danh tiếng là con trai của đại sử gia Bắc Hà Lê Quý Đôn.

Sau 7 lần bốc quẻ, câu trả lời vẫn là núi Thọ Sơn, ngọn núi biểu thị đủ ngũ hành, địa thế có đủ các điều kiện theo ý muốn của đấng quân vương vốn dĩ quy tụ cả thảy những dòng mạch phước đức chạy từ vô số ngọn núi rồi tề tựu lại, tạo nên huyệt đất mà dòng phước đức sẽ vĩnh tồn cả vạn năm. Ấy thế nhưng buồn làm sao, sau 143 năm trị vì với 13 đời vua, triều Nguyễn đã bị sang trang trước dòng chảy cuồn cuộn của thời cuộc!

Những bí ẩn trong việc an táng Vua Gia Long và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu như áo quan đặt thi thể vua và hoàng hậu bằng thứ gỗ gì, tử thi được ngậm ngọc gì để thân xác được tươi lâu, rồi chuyện số phận của những người hầu đào đường hầm bí mật để đặt tử cung (áo quan) của vua và hoàng hậu ra sao, họ tình nguyện hiến thân cùng chết với đấng quân vương hay bị ép phải chết…, những bí ẩn này cùng lý lịch ly kỳ của các báu vật trăm năm có từ thời Vua Gia Long còn tồn tại đến nay chúng tôi sẽ trở lại vào một dịp khác.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung nhấn sâu vào những vị thạch quan hầu vua vĩnh viễn vốn dĩ rất bí hiểm, được nhiều du khách trong và ngoài nước khi đến tham quan muốn biết rõ được đúc từ chất kết dính hay tạc từ đá nguyên khối? Nếu là đá nguyên khối thì lấy ở đâu? Và có hay không chuyện ẩn trong những tượng thạch quan kia là những viên ngọc, thoi vàng quý hiếm thuộc loại bậc nhất?!

Dưới khu vực tẩm Vua Gia Long và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu là sân chầu - nơi có tượng đá voi ngựa và những tượng quan văn võ đứng chầu hơn 2 thế kỷ qua. Thời gian và bao biến cố lịch sử chừng như hiện rõ trên gương mặt của những vị thạch quan nơi đây với nhiều vết nứt và thâm đen. Trong bài viết hướng dẫn viếng thăm lăng vào năm 1923, một nhà truyền giáo người Pháp ghi chú rất rõ những người, thú trên sân chầu này: "Sân chầu lăng rất rộng, 49 (m) chiều ngang trước mặt và 23 (m)  chiều dọc, kéo sâu vào bên trong, được lát gạch vuông màu xám sắt, có 2 con voi bằng đá cao 1,76m, 2 con ngựa đóng yên cương cao 1,15m và 10 tượng quan cao 1,55m, tượng các quan văn hoặc quan võ hộ giá mang gươm đứng hầu, họ đứng vĩnh viễn để chầu đấng tiên đế".

Từ ghi chép của ông L.Cadière thuộc Hội Truyền giáo hải ngoại Paris, hậu thế mới biết hành trình của những khối đá vô tri vô giác trở thành tượng quan đứng chầu vua. Tiền thân của Lăng Gia Long không có những tượng này. Đến tháng 7/1831, Vua Minh Mạng ban chỉ dụ tạc tượng. Theo lệnh vua, những người thợ vẽ được phái vào Quảng Nam và ra Thanh Hóa tuyển chọn loại đá cẩm thạch tại địa phương, sau đó tuyển những điêu khắc gia có tay nghề cao tiến hành công việc đẽo tượng. Thông tin này cho thấy các tượng thạch quan được tạc từ đá nguyên khối chứ không phải đúc bằng bột đá có chất kết dính đặc biệt như có người lầm nghĩ.

Ông Hồ Trúc Sánh bật mí: Trước đây đã có đoàn chuyên gia đến khảo sát, nghiên cứu tượng và phát hiện ẩn sau màu xám đen kia là màu trắng, điều đó chứng tỏ tượng voi ngựa và các quan nguyên thủy bằng đá trắng, nhưng theo thời gian lớp vỏ ngoài tượng đá chuyển màu. Cũng theo chia sẻ của ông Sánh, sau gần 3 năm đẽo tạc, các pho tượng được đặt để tại sân chầu vào tháng 3 và tháng 4/1833.

Hôm đứng giữa sân chầu trước mộ Vua Gia Long cùng chính hậu, chúng tôi nhận thấy  tượng voi ngựa và các quan được phân thành 2 dãy, mỗi dãy có 1 ngựa 1 voi cùng 5 thạch quan (gồm 2 quan văn và 3 quan võ). Tính từ lúc được yên vị đến nay, các vị quan này đã đứng chầu vua gần 200 năm. Sau khi các pho tượng đá được hoàn thành, Vua Minh Mạng đã đích thân đến xem và tỏ ra rất hài lòng, do đó cho ban thưởng trọng hậu những người thợ. Năm năm sau (1838), trong lúc thi hành nhiệm vụ thanh tra, quan đô sát thời bấy giờ là Nguyễn Đình Tuấn phát hiện 1 con ngựa đá trước sân chầu bị vỡ một mảnh dây cương nên đã báo vua.

Qua quá trình thẩm tra theo lệnh thiên tử, Bộ Lễ được người lính hộ lăng là Tôn Thất Chữ khai khi thấy ở các tượng đá có nhiều mảnh vỡ đã dùng hồ gắn lại. Để sự việc được rõ ràng, khách quan, ngay sau đó một quan đại thần khác là Phạm Bạch Như đến kiểm tra và cũng có ý kiến giống tấu trình của Bộ Lễ. Trên cơ sở đó, Vua Minh Mạng đã phạt đốc công đẽo tượng là Lê Phúc Trư 60 trượng vì không kiểm soát kỹ để báo cáo tình trạng của các pho tượng. Vua cũng phạt lính hộ lăng Tôn Thất Chữ 40 roi mây vì tội biết mà không báo…



 Tẩm vua Gia Long và Thừa Thiên Cao Hoàng hậu cùng các vị thạch quan tại sân chầu trăm năm.


Lẽ dĩ nhiên, sau hình phạt ấy, Vua Minh Mạng đã ban chỉ dụ cho sửa lại những pho tượng bị hư hại. Điều khiến chúng tôi thắc mắc là theo ghi chép của tiền nhân chỉ có vài tượng bị hư hỏng nhẹ, nhưng thực tế mà chúng tôi quan sát thì hầu hết các tượng, nhất là tượng thạch quan cả văn lẫn võ đều có nhiều vết sẹo khắp toàn thân. Hay nói chính xác hơn là những vết hàn trám dù rất khéo tay nhưng vẫn để lộ đường nét.

Về điều này, ông Sánh, người làm công việc của lính hộ lăng Tôn Thất Chữ ngày nào cho biết. Khi Pháp đánh chiếm kinh thành Huế, nhiều tượng bị trúng pháo đã sứt đầu mẻ trán nhưng tình trạng thiệt hại của tượng không đáng kể. Bi kịch ập đến vào thời chống Mỹ, vùng đất khu vực Lăng Gia Long bị Mỹ oanh tạc nặng nề, trên trời chúng dội bom, phía dưới liên tục pháo kích. Những cuộc bố ráp liên tục ấy đã khiến nhiều công trình bị hư hại hoàn toàn, và các pho tượng đá, nhất là tượng các thạch quan bị sứt mẻ, rơi đầu thảm hại. Các tượng hiện tại đều đã được các chuyên gia phục hồi!

Cũng theo "lính hộ lăng" Hồ Trúc Sánh, từng xảy ra bi kịch các tượng quan, thú bằng đá bị kẻ xấu đập phá để xem có ẩn chứa vàng ngọc gì không. Ông Sánh nói, nghe các cụ xưa kể lại ngày trước, khu vực lăng vua là nơi bất khả xâm phạm, ai cả gan quấy nhiễu, xâm nhập sẽ khó thoát khỏi tội chết. Và khu vực tẩm Vua Gia Long cùng chính hậu, kể cả khu vực sân chầu có rất nhiều vật quý như đồ khí tự bằng vàng bạc, cành vàng lá ngọc dùng trang trí tẩm, ngoài ra còn có kiếm báu, súng trận, đai ngọc… vốn từng gắn bó với Vua Gia Long được các triều vua sau cho trưng thờ ở đây để hậu thế khi đến thăm biết hàm ơn, ghi nhớ chiến công lẫy lừng của vị tiên vương lập quốc.

Điều này được thể hiện qua tâm sự của Vua Minh Mạng với 2 quan đại thần Nguyễn Hữu Thận và Phạm Đăng Hưng: "Cái nón, cái áo giáp đi trận và cái đai của Hoàng đế thân phụ trẫm đã để lại cho trẫm đều là những vật mà ngài đã dùng trong suốt thời chinh chiến để đem lại hòa bình ổn định cho sơn hà xã tắc. Khi trẫm nhìn lại những vật ấy hình như trẫm đang nhìn thấy lại chính con người của Hoàng Khảo trẫm vậy".

Trời về chiều, gió thổi xào xạc, các vị thạch quan vẫn giữ nghiêm nét mặt, lặng lẽ đứng chầu vua một cách kính cẩn, an nhiên, không gian lúc này nhuốm sắc màu liêu trai đến lạ. Chẳng biết các vị thạch quan này có sức mạnh vô hình nào hay không mà các bậc cao niên trong vùng cho biết sau những cơn lốc của đất nước một thời binh biến, khu vực tẩm của Vua Gia Long và chính hậu hết bị kẻ thù đến kẻ gian dòm ngó nhưng mọi dã tâm "khui" cổ mộ để kiếm đồ tùy táng được đồn đãi có hàng ngàn báu vật vốn là đồ ngự dụng (vua dùng) và đồ tặng tế của các đại thần, hoàng thân quốc thích... đều bị thất bại.

Mà không chỉ thất bại, lắm kẻ vì dám kinh động mả mồ của vua bỗng dưng thổ huyết chết đau chết đớn. Chuyện nghe có vẻ hoang đường nhưng cứ cho là thật đi thì có mất mát gì?! Ít ra những đồn đãi nhân gian ấy cũng khiến lắm kẻ tà tâm bới mộ tìm báu vật ở mộ vua biết sợ mà chùn tay, không dám manh động!

 
Theo Kienthuc.net.vn

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Đề cao vai trò cũng như trách nhiệm của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã hội, lần đầu tiên tại Huế, cũng là lần đầu tiên ở nước ta, có một tổ chức giáo dục đã nêu rõ quan điểm, lập trường, bảo vệ quyền của người phụ nữ: trường Nữ Công học hội.

  • Ít người biết tượng “ông già Bến Ngự” Phan Bội Châu bên bờ sông Hương (Huế) lại có liên quan đến nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn.

  • Chiều ngày 19/10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Tạp chí Sông Hương tổ chức buổi giới thiệu hai cuốn sách “Em còn gì sau chiến tranh”  và “Biến cố 182010” của nhà văn Hà Khánh Linh.

  • Ngày kinh đô Huế thất thủ (5/7/1885), không những hàng vạn thần dân bị sát hại mà vô số cổ vật triều đình cũng bị cướp đi, kể cả ống đựng tăm xỉa răng.

  • Sau hơn 140 năm tồn tại, nhà Nguyễn đã để lại cả kho tàng cổ vật, làm nên phần hồn của di sản văn hóa Huế ngày nay.

  • Chuyên đề Phê bình Nữ quyền là một cố gắng của Ban biên tập nhằm giới thiệu những nét phác thảo ban đầu: “Người viết nữ, giới tính và trang giấy trắng” (Đoàn Huyến) đề cập Cái bẫy giới tính  - giới tính như một cái bẫy êm ái - đã làm hạn chế sức sáng tạo; vậy phải thoát khỏi cái bẫy đó như thế nào? Và có đủ cam đảm để tự “khánh thành mình” như một trang giấy trắng, mà ở đó cô đơn và tự do là những xung lực lạ kỳ để chủ thể sáng tạo có thể thăng hoa? “Những khúc quành của văn học nữ Việt Nam đương đại” (Đoàn Ánh Dương) dẫn dắt bạn đọc đi theo hành trình văn học nữ Việt Nam từ sau 1975 đến nay; xác định những khúc quành: từ sự quy chiếu của diễn ngôn dân tộc qua diễn ngôn dân sự đến diễn ngôn đặt nền tảng ở nhìn nhận về tính cá thể. 

  • Trong hành trình tìm kiếm và quảng bá những điểm đến hấp dẫn của Việt Nam, bằng những phương pháp so sánh, đối chiếu và bình chọn của các đơn vị du lịch, cộng đồng Kỷ lục gia Việt Nam, du khách trong cả nước. Vừa qua, Tổ chức kỷ lục Việt Nam đã công bố Top 45 điểm đến hấp dẫn nhất ở Việt Nam, trong đó Thừa Thiên Huế vinh dự có 6/45 điểm đến du lịch hấp dẫn được bình chọn.

  • Huế đã trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Ca Huế không chỉ phản ánh dòng chảy lịch sử, di sản này còn là quá trình tinh chế vốn văn hóa dân gian có nguồn gốc từ cội nguồn dân tộc Việt hỗn dung với văn hóa bản địa tạo nên một âm sắc Huế, rất riêng.

  • Với sự tham gia của ĐẶNG MẬU TỰU * LÊ VĂN LÂN * ĐINH CƯỜNG * PHẠM THỊ ANH NGA * LÊ HUỲNH LÂM * TÔN PHONG * MAI VĂN PHẤN * PHẠM ĐỨC MẠNH * HỒNG VINH * NGUYÊN NGỌC - TÔN NỮ MINH CHÂU * NGUYỄN XUÂN SANG * NGUYỄN ĐỨC TÙNG * ALICIA OSTRIKER * JEAN VALENTINE * TIM SUERMONDT * NHẬT CHIÊU * PHI TÂN * VÕ NGỌC LAN * PHƯƠNG ANH * NGUYỄN DƯ HOÀI MỤC * ĐỖ XUÂN CẨM * QUẾ HƯƠNG * NGUYỄN KHOA QUẢ * HOÀNG DIỆP LẠC * LÊ MINH PHONG * NGÔ ĐÌNH HẢI * NGÔ MINH
    Sông Hương số đặc biệt tháng 9/2105 trân trọng gửi đến quý bạn đọc.

  • Số báo này xuất bản cũng nhằm vào những ngày Liên hiệp Hội tổ chức chuỗi hoạt động kỷ niệm 70 năm thành lập. Bài “70 năm, một dòng chảy văn học nghệ thuật nối tiếp văn mạch của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa sẽ điểm lại diễn trình 70 năm đáng tự hào của văn nghệ xứ Huế. 

  • Hiếm có làng nào lại quy định rõ ràng về việc dọn thức ăn trong ma chay như làng Mỹ Phú (xã Phong Chương, H.Phong Điền, Thừa Thiên-Huế).

  • Ở không ít làng quê xứ Huế ngày nay, lệ làng vẫn tồn tại với nhiều quy định khắt khe, chặt chẽ.

  • Tháng 8 năm này, kỷ niệm 95 năm ngày sinh của điêu khắc gia Điềm Phùng Thị (18/8/1920). Một bài viết trong số này, đã nhắc lại “cuộc hóa thân của đất đá” trong sự nghiệp lừng lẫy của bà. Các truyện ngắn được chọn đăng, vừa có những thử nghiệm bút pháp mới, vừa sâu thẳm tính nhân văn; và một lần nữa, trách nhiệm cụ thể của nhà văn được khơi mở: Làm sao vừa có những sáng tạo đầy bứt phá về nghệ thuật, vừa có thể gắn chặt với thực tại? Làm sao để những biến ảo kỳ diệu của tâm thức đời sống, của tiềm thức con người, của “cái bóng” đa nhân cách cuộc đời không dễ nắm bắt… có thể đi vào văn học nghệ thuật? Tất cả lại là những vấn đề muôn thuở của văn học

  • Chùa Từ Hiếu hay còn gọi là chùa “Thái giám” nằm trên ngọn núi Dương Xuân thuộc phường Thuỷ Xuân (TP.Huế). Đây là địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng của Huế, nhưng ít người biết được nguồn gốc đầy nước mắt của ngôi cổ tự này. Nơi đây có một nghĩa trang của những con người mang thân phận không phải đàn ông mà cũng chẳng phải đàn bà...

  • Ngọ Môn là cổng chính phía nam của Hoàng Thành – Kinh Thành Huế, cũng được coi là bộ mặt của Hoàng Thành và vương triều phong kiến.

  • Hệ thống thơ văn trên di tích Huế có một phần rất lớn là Ngự chế thi của vua Minh Mạng, trong đó, đặc biệt tại Hiếu Lăng (lăng vua Minh Mạng) là nơi có nhiều thơ của nhà vua được chạm khắc, trang trí để lưu truyền cho hậu thế.

  • Từ ngày 17 đến 23 tháng 7 năm 2015, trại sáng tác văn học Phong Điền năm 2015 đã diễn ra tại vùng Ngũ Điền do Hội nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND huyện Phong Điền tổ chức.

  • Câu chuyện này lại có liên quan đến một sự kiện diễn ra cách nay đúng một 150 năm, đó là câu chuyện sứ đoàn đầu tiên của nước ta sang Pháp (1863 - 1864)...

  • Trên các đền đài, lăng tẩm, cung điện triều Nguyễn tại cố đô Huế xuất hiện hàng ngàn bài thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán. Hệ thống di sản tư liệu độc đáo này vừa được giải mã để đề nghị UNESCO công nhận là di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới.

  • Chỉ cần nhìn làn da bất chấp tuổi tác của những người phụ nữ trong gia đình này, bạn sẽ thấy bí quyết làm đẹp từ hoàng cung mà họ được truyền lại qua mấy đời thực sự diệu kỳ đến thế nào. Đó là bí mật để làm ra những viên phấn nụ, dưới công thức của các ngự y triều Nguyễn, chỉ dành cho những giai nhân ở chốn cấm cung.