Trong sự phát triển chung của văn học nghệ thuật (VHNT), lực lượng nghệ sĩ trẻ, nghiên cứu trẻ đang đóng một vai trò rất lớn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa. Thế nhưng, với các loại hình VHNT truyền thống, dân gian vai trò của những người trẻ hiện nay đang khá mờ nhạt bởi sự chi phối của xã hội.
Văn học nghệ thuật truyền thống đang thiếu đi lớp trẻ kế cận. Ảnh minh họa.
Ngày 26/12, tại Hà Nội, Hội Sân khấu Hà Nội phối hợp với Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội đã tổ chức Hội thảo “Phát huy tài năng nghệ sĩ trẻ, nghiên cứu trẻ trong sự nghiệp kế thừa và phát triển văn nghệ dân tộc hôm nay”. Với sự tham gia của giới văn nghệ sĩ “lão làng” một lần nữa thực trạng “tre đã già mà măng chưa mọc” trong lĩnh vực VHNT truyền thống, dân gian đã được đưa ra phân tích, đánh giá.
Nhà viết kịch Giang Phong kể câu chuyện nhà viết chèo Đào Nguyên đã một thời gian làm Trưởng phòng nghệ thuật Sở VH Hà Nam khi một cộng tác viên đến gửi ông kịch bản, thì ông hỏi ngay, năm nay anh bao nhiêu tuổi, nhà viết kịch trẻ tương lai kia trả lời 25 tuổi. Ông Đào Nguyên trả lại bản thảo và nói: “Khi nào anh trên 30 tuổi, anh mang kịch bản đến thì tôi đọc”. Đây là câu chuyện thật tôi chứng kiến, nghe có vẻ rất cực đoan nhưng cũng để thấy rằng, ở một tuổi chín chắn, từng trải nào đó thì mới viết nổi kịch. Viết kịch khó lắm! Và thực tế nhiều năm nay, Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam dày công tìm tòi, bồi dưỡng tác giả viết kịch. Gọi là trẻ, nhưng cũng phải từ hơn 40, 50 tuổi. Mới đây, Trại sáng tác do Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam mở vào tháng 11/2018 có 6 tác giả trẻ. Nhưng người trẻ nhất đã 50 tuổi, còn lại 5 tác giả trẻ đã đang hưởng lương hưu.
Nhà biên kịch, đạo diễn Hoàng Thanh Du nói, lực lượng tác giả và đạo diễn trong lĩnh vực sân khấu đang rất thiếu và yếu trầm trọng. Hầu như rất ít tác giả biên kịch dưới 60 tuổi. Ở lĩnh vực đạo diễn tình hình khả quan hơn là mức tuổi trên dưới 50. Trong khi ấy các bộ môn nghệ thuật khác đã có rất nhiều công trình nghệ thuật, điện ảnh có những tác giả trẻ là biên kịch, đạo diễn đều dưới 40 tuổi, thậm chí còn trẻ tuổi dưới 30. Thế nhưng theo nhà biên kịch Hoàng Thanh Du thì đây là việc vừa được vừa chưa được. Bởi nhiều diễn viên lớn tuổi sau nay đều đi đào tạo trở thành đạo diễn hay tác giả. Nhờ có kinh nghiệm nên họ nên khi chuyển sang lĩnh vực mới hầu như không có sự bỡ ngỡ, bắt nhịp được với đội ngũ diễn viên vốn là bạn diễn lâu năm.
GS.TS Lê Hồng Lý- Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội cho rằng: “Có một thực tế với lực lượng người nghiên cứu, biểu diễn các giá trị văn hóa nghệ thuật dân gian là người già dần dần ra đi, lớp trẻ thơ ơ với truyền thống”. Tuy nhiên, theo PGS.TS Lê Hồng Lý cũng không thể bắt buộc, áp đặt những người trẻ phải yêu mến và trọng những giá trị VHNT truyền thống. Trong thời buổi kinh tế thị trường vì cuộc sống mưu sinh nên số thanh niên trẻ không mặn mà với các ngành khoa học và nghệ thuật. Bởi vì để thành tài hay vững vàng trong nghề này đòi hỏi phải có thời gian, công sức học tập và rèn luyện; đòi hỏi sự kiên trì và đặc biệt là sự say nghề; kể cả như vậy thì cũng phải mất hàng chục năm mới có thể tạm ổn và sống bằng nghề. Trong khi đó, các lĩnh vực khác có thể nhanh chóng kiếm được công ăn việc làm và thu nhập ổn định.
Ths Nguyễn Thị Tô Hoài- Viện Nghiên cứu văn hóa (Viện HLKHXH Việt Nam) nói: Khó khăn đầu tiên chính là quá trình điều tra thực địa. Trước hết là thách thức khi gặp gỡ và tìm kiếm sự chia sẻ thông tin của chính những người thực hành văn hóa. Đối với họ, hoặc sẽ cho rằng chúng tôi là thuộc những người trẻ chẳng hiểu gì về văn hóa truyền thông hay lạt non mà đòi buộc tre già… Chính vì vậy khi đi phỏng vấn tại địa phương, nhiều người né tránh, không chia sẻ hay nói chính xác là ngại cung cấp thông tin hay nói chính xác là ngại cung cấp thông tin. Còn lại có trường hợp ngại chia sẻ với lý do mất lòng tin, mà nguyên nhân của sự mất lòng tin đó là bởi có rất nhiều trường hợp những người trẻ tuổi đã đến gặp gỡ, lợi dụng lòng tin của họ, giả mạo cơ quan văn hóa để điều tra sưu tầm rồi biến các di sản truyền thống trở thành món hàng đem ra thị trường kinh doanh dưới nhiều hình thức. Và những “con sâu làm dầu nồi canh” đó gây ra sự mất lòng tin là tất yếu, nhất là trong bối cảnh của sự phát triển mạnh của thông tin và mạng xã hội như hiện nay thì sự thận trọng của những người thực hành, bảo lưu văn hóa truyền thống đối với những người trẻ là không tránh khỏi.
Bên cạnh đó, một khó khăn khác với chính những người nghiên cứu trẻ hiên nay thấy mất lòng tin khi chính những người thực hành văn hóa truyền thống đem thị trường hóa các giá trị văn hóa của mình. Họ đòi hỏi những chia sẻ phải được định giá một cách rõ ràng. Vì vậy mà khi đồng tiền bỏ ra không tương xứng thì việc chia sẻ thông tin đối với họ cũng là không có, thậm chí còn có những chia sẻ hoàn toàn sai lệch. Mặt khác, có rất nhiều người lại ngộ nhận về giá trị di sản của mình nền thổi phồng hoặc đòi các danh hiệu quá mức mà chúng tôi không thể đáp ứng hoặc trả lời được một cách khách quan nhất.
Theo Hoàng Minh - ĐĐK
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!