Luận về đặc trưng nghệ thuật trong thơ Nguyễn Du

10:01 16/09/2021

NGHIÊM DIỄM   

Nguyễn Du (1766 - 1820) là nhà văn nổi tiếng nhất của Việt Nam, ông không chỉ sáng tác truyện thơ lục bát chữ Nôm “Kim Vân Kiều Truyện” nổi tiếng trong và ngoài nước, mà còn sáng tác ra một số lượng lớn thơ chữ Hán.

Ảnh: internet

Các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, bút pháp thơ rất rộng, nhưng đặc biệt chịu ảnh hưởng của thơ Đỗ Phủ. Thơ Nguyễn Du thể hiện một cái nhìn đầy bi thương sâu sắc, biểu hiện cụ thể ở các khía cạnh sau:

1. Lựa chọn những hình ảnh cô tịch, thê lương

Số lượng từ và việc lựa chọn từ vựng trong thơ rất quan trọng, do từ vựng tạo nên hình ảnh và cấu tạo nên toàn bộ phong cách thơ. Nguyễn Du thường chọn một số hình ảnh trầm mặc và bi thương trong các bài thơ của mình để gửi gắm những suy tư về thời đại. Một mặt, thơ Nguyễn Du ở phương diện từ vựng, thường sử dụng các từ như: “bạc đầu”, “tóc bạc”, “già”, thể hiện đầy đủ nhận thức của ông về sinh mệnh vô thường, than thở về bản thân, chẳng hạn như: “Sinh vị thành danh thân dĩ suy. Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy”. (Dịch thơ: Sống chửa nên danh thân yếu rày. Bơ phờ tóc bạc gió chiều bay - Đông A dịch) (“Tự thán”); hay như trong bài “U cư” kì 1 có đoạn: “Trú cửu đốn vong thân thị khách. Niên thâm cánh giác lão tùy thân”. (Dịch thơ: Trọ lâu quên bẵng thân là khách. Tới mãi thành quen tuổi cõng già - Quách Tấn dịch). Mặt khác, những hình ảnh như “mùa thu”, “vầng trăng” lại được chọn để thể hiện sự suy tư đau buồn. Nguyễn Du cũng thường lựa chọn những từ mang tính bi thương như: “nghèo”, “bệnh”, “chết”... để miêu tả sự khổ đau của bách tính dân thường trong thời buổi loạn lạc, chẳng hạn như: “Tam xuân tích bệnh bần vô dược. Táp tải phù sinh hoạn hữu thân”. Dịch thơ: “Trọn xuân bệnh hoạn không thang thuốc. Ba chục phù sinh luống ngại ngần” (Nguyễn Thạch Giang dịch) (“Mạn hứng 1”); do đó thơ Nguyễn Du vẫn còn xuất hiện các từ liên quan đến nghèo đói, chết chóc, đau thương như: “sầu”, “tang tóc”, “khóc”. Những từ phổ biến này trong thơ Nguyễn Du thường xuất hiện trong một tập thơ, chẳng hạn bài “Thu chí” trong tập thơ “Nam Trung tạp ngâm”:

Thu chí

Hương Giang nhất phiến nguyệt, kim cổ hứa đa sầu
Vãn sự bi thanh trủng, tân thu đáo bạch đầu
Hữu hình đồ dịch dịch, cô bệnh cố câu câu
Hồi thủ Lam Giang phố, nhàn tâm tạ bạch âu.


Dịch thơ: Thu chí

Sông Hương một mảnh trăng treo
Mối sầu thiên cổ thêm đau nỗi đời
Thu về bạc phếch tóc vôi
Chuyện qua mộ cũ bời bời cỏ xanh
Có thân nên mới lụy mình
Buồn thay không bệnh mà lưng phải khòm
Ngoảnh đầu lại bến sông Lam
Bụng nhàn mà lại phụ đàn bạch âu.

            (Trương Việt Linh dịch)

Bài viết tiến hành thống kê tổng thể từ vựng trong các tập thơ hiện có của Nguyễn Du, trong đó xuất hiện nhiều các từ vựng của thơ Đỗ Phủ:



Sự xuất hiện thường xuyên của những từ vựng này khiến các bài thơ của Nguyễn Du thể hiện tâm trạng thê lương đau khổ, ẩn chứa không khí u sầu. Phong cách thơ của Nguyễn Du được hình thành không chỉ bởi thời cuộc loạn lạc, mà chính sự bất hạnh của gia đình cũng mang đến cho ông nhưng tổn thương sâu sắc. Mặc dù được sinh ra trong 1 gia đình đại quý tộc, nhưng ông cũng không được hưởng cuộc sống giàu sang phú quý, thay vào đó là cuộc sống vất vả từ nhỏ. Nguyễn Du là con trai thứ tám của Nguyễn Nghiễm, con của vợ lẽ. Nguyễn Nghiễm có 8 người vợ và 21 người con. Thuở nhỏ, Nguyễn Du với xuất thân là con vợ lẽ, nhà lại đông anh chị em, nên cuộc sống không mấy dễ dàng, những biến động gia đình kéo theo đó càng khiến cho cuộc sống của ông trở nên tồi tệ hơn. Năm Nguyễn Du 11 tuổi, anh trai Nguyễn Trụ qua đời khi tròn 18 tuổi, cha Nguyễn Du cũng qua đời vào ngay năm sau đó; 2 năm sau, mẹ ruột ông - bà Trần Thị Tần cũng qua đời vì bạo bệnh. Khi còn là một thiếu niên, Nguyễn Du đã phải chịu đựng nỗi đau li biệt liên tục từ anh, cha cho đến mẹ. Vì mẹ ruột xuất thân nghèo khó, nên 4 anh chị em Nguyễn Du được gửi đến nuôi dưỡng ở nhà của anh trai cả Nguyễn Khản. Không lâu sau, Nguyễn Khản lại bị cách chức vì những biến động chính trị, Nguyễn Du được gửi đến nhà quan võ họ Hà làm con nuôi. Sau khi triều Lê diệt vong, Nguyễn Du đành nương tựa vào người anh rể Đoàn Nguyễn Tuấn. Sinh thời, Nguyễn Du sống một cuộc sống nghèo khổ và bệnh tật, ông thở dài trong thơ: “Mười năm đọc sách vẫn nghèo, Thiếu cơm thiếu áo gieo neo một đời” (“Hữu chí” - Nguyễn Thiên Thụ dịch); hay như: “Chết giữa văn chương đời luẩn quẩn. Sống trong trời đất kiếp bình bồng” (“Mạn hứng” kỳ 2 - Nguyễn Thạch Giang dịch). Cuộc sống gia đình và nỗi đau thời thế càng thúc đẩy hơn nữa nỗi buồn trong thơ Nguyễn Du.

2. Thiên về bút pháp tả thực

Thời đại Nguyễn Du sống trải qua quá trình chuyển giao từ triều đại Lê Trịnh sang triều đại Tây Sơn, rồi triều đại Tây Sơn lại bị triều Nguyễn thay thế, Việt Nam từ Bắc đến Nam bị cuốn vào vòng xoáy chiến tranh liên miên trong nhiều năm. Chiến tranh không chỉ giáng những đòn tàn khốc vào cuộc sống của người dân mà còn mang đến nhưng nỗi đau tâm lý rất lớn. Vào thế kỷ XIX, Trung Quốc đang ở những năm cuối cùng của triều đại nhà Thanh, dưới thời phong kiến sắp suy tàn cũng xuất hiện nhiều vấn đề xã hội khác nhau, người dân Trung Quốc cũng vì thế mà nghèo đói, bệnh tật. Nguyễn Du mô tả toàn cảnh xã hội mà ông nhìn thấy trong các bài thơ của mình: Đầu tiên, ông miêu tả cuộc sống đau khổ và bệnh tật của dân chúng, tái hiện chân thực các nhân vật trong nhiều cảnh ngộ khác nhau, chẳng hạn trong “Thái Bình mại ca giả”, Nguyễn Du miêu tả hình ảnh một ông lão mù lòa vì mưu sinh phải dắt theo đứa con nhỏ đi tứ xứ hát rong, mặc dù ông lão mù lòa hát rong sáng tối nhưng cũng chỉ kiếm được 5,6 đồng. Trong “Sở kiến hành”, Nguyễn Du mô tả hình ảnh một người phụ nữ dắt theo 3 đứa trẻ ngồi bên vệ đường, đứa nhỏ ôm trong lòng, đứa lớn tay cầm 1 chiếc giỏ tre, bên trong chỉ đựng 1 ít trấu, mô tả cuộc sống lang thang của 4 mẹ con không có cơm ăn áo mặc. Ngược lại với những người dân đói khổ này là những hành vi lãng phí của quan lại mà không hề hay biết đến nỗi thống khổ của người dân: “một con tàu đầy ắp thịt và gạo. Người đi đường ăn no vất bỏ đi, thức ăn thừa chìm xuống đáy sông”. Tiếp theo, Nguyễn Du ghi lại chân thực cuộc chiến tranh lúc bấy giờ. “Trở binh hành” của Nguyễn Du phỏng tác theo “Binh xa hành” của Đỗ Phủ, thậm chí hình thức câu thơ cũng gần như tương đồng, mô tả cuộc nổi loạn địa phương ở 2 quận, huyện mà ông chứng kiến trên đường đi sứ đến Trung Quốc, cho đến sự thịnh hành của Bạch Liên Giáo, và mùi máu tanh theo gió tràn ngập trong thành khi quan lại địa phương trấn áp cuộc nổi loạn. Nguyễn Du có tư tưởng nhập thế Nho gia mạnh mẽ, thể hiện ở việc ông đồng cảm và quan tâm đến những tầng lớp dưới, quan tâm đến nỗi thống khổ của nhân dân, phản đối chiến tranh phi nghĩa... Nội dung trong thơ Nguyễn Du đều trực tiếp phản ánh thời đại ông đang sống lúc bấy giờ, mang tính chất sử thi.

Từ việc trực tiếp ghi lại sự biến đổi của thời đại, thơ của Nguyễn Du có khuynh hướng trần thuật tả thực. Ví dụ trong bài thơ “Long Thành cầm giả ca”, Nguyễn Du miêu tả hình ảnh một người gảy đàn hát rong giữa phố chợ ở thời kỳ Tây Sơn, tài nghệ cao siêu. Nghe nói người gảy đàn này đã từng ở trong đội nữ nhạc cung vua Lê, vì quân Tây Sơn khởi binh công phá thành Thăng Long, thê thiếp của triều Lê bị chết, bị thương, lưu lạc khắp nơi, nhiều nữ nhạc lưu lạc đến chợ sống bằng việc hát rong. Sau khi nhà Tây Sơn làm chủ thành Thăng Long, người nữ nhạc này không chỉ hát hay mà còn khéo nói khôi hài, nên được xưng tụng là “Thăng Long đệ nhất tài nghệ”, được các chư thần triều Tây Sơn ban thưởng nhiều vô kể. Về sau, khi triều Tây Sơn thất bại, Nguyễn Du rời nhà về Nam, cũng không gặp lại người ca nữ này nữa. Vào thời nhà Nguyễn, Nguyễn Du phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, khi đi qua kinh thành Thăng Long lại một lần nữa nhìn thấy người ca nữ này ở dinh Tuyên phủ, lúc này cô ấy mặc một bộ quần áo vải thô với nhiều miếng vá, ngồi khuất một góc trong đám đông. Trong bài thơ, Nguyễn Du mượn hình ảnh lận đận về số phận của một người phụ nữ bình thường trong xã hội để phản ánh ảnh hưởng của nhiều năm chiến tranh loạn lạc liên miên trong cuộc chiến giành vương vị của 3 triều đại đối với người dân thường.

Nguyễn Du sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống văn chương, nổi tiếng về văn học, nhưng lại sinh ra không gặp thời, cảnh đời éo le. Sau khi trải qua sự thay đổi của các triều đại và nhiều biến cố thế sự, Nguyễn Du thở dài rằng: “Thật đáng thương đời tựa đám mây” (“Đối tửu” - “Thanh Hiên thi tập” - Đông A dịch). Bản tính nhạy cảm của một nhà văn, lại trải qua nỗi đau thời buổi đất nước loạn lạc, nỗi buồn của cảnh nghèo đói cơ cực khiến thơ của Nguyễn Du bộc lộ nét đẹp nghệ thuật của sự trầm mặc bi thương. Mặc dù Nguyễn Du nổi tiếng trong và ngoài nước với truyện thơ chữ Nôm “Kim Vân Kiều Truyện”, nhưng thơ chữ Hán của ông lại chiếm một vị trí quan trọng trong dòng chảy văn hóa Hán học, như một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã chỉ ra: “Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là đỉnh cao trong sáng tác thơ chữ Hán của Việt Nam. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là một kho tàng nghệ thuật thơ ca phong phú cho những nghiên cứu về thơ chữ Hán ở Việt Nam”.1

N.D
(TCSH390/08-2021)

-------------------
1. “Lời nói đầu Nguyễn Du toàn tập”, Nxb. Văn học Trung tâm Nghiên cứu Quốc học Việt Nam, 1996.  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ HOÀI THU

    Thôn ca (1944) của Đoàn Văn Cừ là bức tranh thơ sống động về con người và cảnh vật của không gian văn hóa Sơn Nam - Bắc Bộ.

  • NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

    Độc giả trẻ thời nay không ít người sẽ hết sức ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng Truyện Kiều, thiên tiểu thuyết bằng thơ dài tới 3.254 câu với cả thảy 22.778 lượt dùng từ, nhưng lại chẳng hề có qua một chữ NẾU nào, tuy rằng nghĩa “ĐIỀU KIỆN” và/hay “GIẢ ĐỊNH”, vốn được diễn đạt bằng NẾU (hoặc các biểu thức ngôn từ tương đương) trong tiếng Việt đương đại là một trong những nghĩa phổ quát (tức mọi thứ tiếng đều có) và ít thấy một thứ tiếng nào lại vắng các phương tiện riêng để biểu thị.

  • ĐINH VĂN TUẤN

    Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”(1).

  • KHẾ IÊM

    Tựa đề về cái chết của hậu hiện đại không có gì mới vì đã có khá nhiều bài viết bàn về vấn đề này, từ những đầu thập niên 1990. Nhưng bài viết đã phác họa cho chúng ta thấy đời sống văn hóa trong thời đại sau chủ nghĩa hậu hiện đại với sự xuất hiện những phương tiện công nghệ mới. Lạc quan hay bi quan, chúng ta chưa biết, nhưng rõ ràng những hệ tư tưởng cũ đang dần dần bị tàn phai nơi những thế hệ mới.

  • ALAN KIRBY

    LTS: Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.

  • LÊ QUỐC HIẾU

    Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.

  • THÁI KIM LAN
    I.
    Bài viết này được mở đầu bằng một trải nghiệm tự thân, từ chỗ đứng của chủ thể thực hành nói ra kinh nghiệm của mình, vì thế có thể gây ấn tượng về tính chủ quan. Sự trách cứ ấy xin nhận lãnh trước, nhưng xin được tạm thời để trong dấu ngoặc.

  • LUÂN NGUYỄN

    Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
                 (Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Trích tham luận tại Hội thảo "Văn học trước yêu cầu đổi mới" tháng 12-1987)

  • BỬU CHỈ

    Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.

  • LÊ QUANG THÁI

    Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
    Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Kìa ai chín suối xương không nát
    Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn
                   
    (Nguyễn Khuyến)

  • TRẦN HUYỀN TRÂN

    Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?

  • NGUYỄN DƯ

    Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?

  • PHAN TUẤN ANH

    “Lịch sử như là đem lại ý nghĩa cho cái vô nghĩa”
                                                               (T.Lessing)

  • Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Sau khi đọc bài trao đổi của Triệu Sơn trên tạp chí Sông Hương số 10/2013 về bài viết của tôi trên tạp chí Sông Hương số 8/2013, tôi xin có mấy ý trả lời như sau:

  • PHAN NGỌC

    Trong quyển "Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều", tôi có dùng một số thuật ngữ chuyên môn. Trong phạm vi quyển sách tôi không thể trình bày kỹ cách hiểu của mình, cho nên có sự hiểu lầm. Giờ tôi xin trình bày kỹ hơn khái niệm "thức nhận", cơ sở của tác phẩm, để bạn đọc dễ đánh giá hơn.

  • YẾN THANH

    Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhìn nhận những cống hiến của GS.TS Lê Huy Bắc trên lĩnh vực khoa học, đây là những thành tựu mà theo chúng tôi, vừa có tính lan tỏa, lại vừa có tính bền vững. Bởi vì, có thể nhiều học viên, nhà nghiên cứu dù không trực tiếp được nhà khoa học giảng dạy, hướng dẫn, nhưng từ những công trình, bài báo khoa học, vẫn được kế thừa và chịu sự tác động từ người thầy đó. 

  • TRIỆU SƠN

    Bài này nhằm trao đổi với tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy về những bất cập của nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay nhân đọc bài “Những bất cập và thái quá trong nghiên cứu văn học hiện nay” của tác giả trên Sông Hương, 294/08-13.