NGUYỄN QUANG HÀ
(Bút ký)
Ông Lê nguyên giám đốc sở Văn hoá Bình Trị Thiên, một lần về Thủy Dương lấy tài liệu viết tuyên truyền cho vụ lúa mùa, đã cụng đầu với ông bí thư xã.
Minh họa: PHẠM ĐẠI
Được biết đoàn đã gặp gỡ cán bộ xã, ông Bí thư không hài lòng: “Tôi đề nghị các anh xoá hết các điều ấy. Chúng tôi không công nhận những gì các anh lấy đó để tuyên truyền đâu đấy”. Đoàn xin đi thăm một đội sản xuất, ông nói: “Chưa làm với xã thì chưa đi đội được”. Để chấm dứt cuộc phỏng vấn chưa kịp vào đề, ông Bí thư đứng lên: “Tôi không có thì giờ nói với các anh nữa, tôi về”. Rồi ông “đeo xắc vào vai, đội mũ, không tắt quạt, không nhìn ai, vừa xỉa răng, vừa đủng đỉnh đi ra cửa không thèm ngoái lại”.
Đoạn kết luận bài: “Bỗng nhiên tôi cụt hứng”, ông Lê viết: “Tôi cứ băn khoăn không rõ vì sao ở một xã đang lên, được nhiều tiếng khen mà đồng chí Bí thư Đảng ủy xã lại đối xử với cán bộ như vậy. Dù còn vì một căn nguyên nào khác nữa thì đồng chí lãnh đạo tiêu biểu của một xã cũng không bao giờ được buông thả mình theo”.
Chúng tôi thường đùa ông Lê rằng ông “trúng số độc đắc”. Không ngờ chuyến về Hương Điền lần này, tôi cũng gặp phải trường hợp trớ trêu như thế.
Đầu đuôi như sau:
Ông Nguyễn Văn Chương, Bí thư huyện hỏi tôi:
- Kế hoạch về Hương Điền của anh thế nào?
Tôi đáp:
- Tôi xin đi Phong Sơn, Phong Sơn là một xã kiên cường trong kháng chiến chống Mỹ. Tôi muốn viết sự đền ơn trả nghĩa ở đây.
Ông Bí thư nói ngay:
- Quảng Thái cũng là xã kiên cường trong chống Mỹ. Phong trào của nó bây giờ đang lên. Tôi đề nghị anh về Quảng Thái. Còn Phong Sơn là một trong bốn xã kém của huyện, anh không nên về.
Tôi đáp:
- Không cứ viết về một đơn vị tiên tiến, điển hình mới là tuyên truyền.
Không biết sai khiến được tôi, ông Chương phật ý. Ông đứng dậy, đi đi lại lại, ra ra vào vào, mặt khó đăm đăm. Có lẽ ông quen được nghe lời, bây giờ có người dám trái ý, ông không chịu nổi. Quả nhiên, lát sau ông đứng trước mặt tôi, phán một câu làm tôi ngạc nhiên dựng đứng tóc gáy:
- Nếu anh cứ đi Phong Sơn tôi sẽ không giới thiệu.
Thật tôi không ngờ tình huống lại xảy ra như thế.
Tôi vừa lủi thủi, vừa hăm hở đạp xe hai chục cây số về Phong Sơn.
Lủi thủi vì tôi buồn về cuộc tiếp xúc vừa qua. Hăm hở vì tôi không thể tin Phong Sơn lại kém đến thế. Có thể nào quên Phong Sơn đã một thời gạt bom đạn, đứng làm múi cầu, nối chiến khu với đồng bằng Phong Quảng.
Tôi đạp xe qua Đồng Dạ, Hiền Sĩ, Cổ Bi, Sơn Quả, Thanh Tân, Công Thành… Mỗi thước đất dưới bánh xe lăn đều thức dậy trong tôi những kỷ niệm.
Tôi không thể quên, bấy giờ vào tháng 11 năm 1966. Dưới đất, xe tăng gầm rú dẫn quân tràn về Phong Sơn, gặp nhà đốt nhà, gặp trâu bắn trâu, gặp hầm đốt hầm. Trực thăng đuổi theo từng con trâu tháo chạy trên đồng bắn gục. Cả một góc trời ngùn ngụt lửa khói. Già trẻ lớn bé, đàn ông đàn bà đều bị lính túm cổ áo quăng lên trực thăng, đổ xuống Phường Sắn, thép gai quây chặt bốn bề. Chỉ sau một đêm trong vòng kẽm gai, mấy chục ông già đã chết vì uất ức.
Đêm, B57, B52 dội bom xuống Phong Sơn. Ngày, máy ủi về cày tung từng viên gạch. Phong Sơn thành vùng trắng, mọc đầy loài cây cỏ ngủ đầy gai, cứa nát chân như để nhắc mỗi người qua đây về nỗi đau trên đất này.
Dân Phong Sơn không chịu sống trong khu đồn, đã phá tan hàng rào thép gai, tản về ở khắp Phò Trạch, Phong Hiền, Phong An. Từ đây lại lần mò về mảnh đất cũ, tìm du kích nối lại phong trào.
Tôi không thể nào quên được chị Cầm, người Bí thư bí mật trong lòng địch. Thấy du kích ước ao có khẩu súng M-79, chị lừa địch, ăn cắp được, rồi đi tới từng bụi rậm trên đồng gọi anh em mình. Không thấy ai chị đi lang thang, tay ôm khẩu súng, nước mắt chảy ròng ròng. Một thời gian sau, địch bất ngờ mở trận càn hậu cứ. Được tin, trong đêm, chị chạy tắt đồng lên báo cho du kích, chị vấp mìn, chết khi trời vừa rạng đông.
Không thể nào quên được em An, 12 tuổi, em đi nắm địch cho lực lượng địa phương tập kích đồn Hiền Sĩ. Em bị chúng bắn chết, khi thấy em đang cởi trần, mặc mỗi chiếc quần đùi, tay nắm chặt chiếc bắp ngô đang còn ăn dở.
Tôi không thể quên Đời. Anh có một vợ, hai con. Đêm đem tiền vào ấp mua hàng cho chiến khu bị địch phục kích. Bị thương không bò được, biết không thoát khỏi, anh cướp thời gian xé hết tài liệu, xé hết tiền. Vừa xong việc, địch ập tới, chúng bắn xả vào ngực anh cả một băng dài.
Những kỷ niệm ấy trong tôi nhức nhối, như lên tiếng rằng, dân Phong Sơn như thế, đâu có thể chịu thua ai. Tính lại lực lượng, Phong Sơn có hơn 7.000 dân, 1.000 hec-ta lâm nghiệp, 400 hec-ta đất nông nghiệp, 400 hec-ta đất cây công nghiệp. Tiềm năng ấy, con người ấy đâu có dễ yếu hèn.
Nghe tin tôi lại về Phong Sơn, các cơ sở cũ tìm đến thăm tôi rất đông. Một chị bước vào, hỏi ngay:
- Mi còn nhớ tau không, Hà?
Tôi đáp:
- Chị là Len chứ gì.
Thế là chị ôm lấy vai tôi òa khóc:
- Đến tên chị mi còn quên. Hèn chi người ta quên Phong Sơn là phải. Bây chừ người ta đi một bước có xe. Làm răng còn nhớ lúc nằm bờ, ngủ bụi chờ dân Phong Sơn này lén lút đem tới cho từng vắt cơm chim lận trong cạp quần.
Tôi nói:
- Thời đó không có Phong Sơn dễ gì sớm có Phong Quảng. Chỉ nguyên việc ấy, chả ai dám quên Phong Sơn đâu.
- Ngày xưa đêm mô vào ấp, bọn bay cũng nói với chị: “Đất nước thống nhất đời sẽ đổi khác”. Sao bọn bay lại nỡ để Phong Sơn lụn bại in ri. Hay bây giờ làm ông nọ bà kia rồi quên luôn cả những lời hứa hẹn. Làm người không nên thất hứa em ạ.
Điều tôi suy nghĩ suốt từ lúc rời huyện, bây giờ đã đến lúc nói ra được:
- Các anh các chị như thế, xã ta có truyền thống như thế , sao lại để huyện xếp vào loại kém là thế nào. Chẳng lẽ mình đánh mất mình rồi ư?
Câu hỏi của tôi như đổ dầu vào lửa. Lửa bùng ngay lên, cuồn cuộn, dữ dội. Một anh bỗng bật cười ha hả. Anh càng cười, nước mắt càng tràn ra đuôi hai con mắt, lát sau anh nói:
- Chúng ta làm việc è cổ ra như răng huyện có biết mô. Chỉ thấy chúng ta thiếu thóc nghĩa vụ, thiếu lợn nghĩa vụ thì bảo chúng ta là kém. Cứ coi xã Phong Mỹ đó. Diện tích đất đai nó như của mình. Việc của nó là nông nghiệp như chúng ta, nó bỏ ruộng đồng, vụ này chỉ cấy 40 hec-ta lúa, trồng 40 hec-ta lạc, bỏ hết lao vào đi trầm. Nó được huyện xếp vào xã khá. Khá nỗi chi.
Phải vào trong Đảng ủy xã tôi mới được nghe một cách tường tận, đầu đuôi. Anh Xuân Hãn, Bí thư Đảng ủy xã yêu cầu trong câu chuyện đừng đụng gì tới nhân dân cả: “Tôi khẳng định với các anh rằng không có dân ở mô ăn đứt chất cách mạng của Phong Sơn được. Có ở đây cả hôm qua và hôm nay mới hiểu hết về họ”.
Ngược lại, khi nói về Đảng bộ xã, những ý kiến phê phán rất kịch liệt. Nào là yếu về năng lực, nào là biến chất, nào là bị miếng cơm manh áo lôi cuốn… không đủ để dân tin, không tập hợp nổi quần chúng để tạo nên phong trào. Họ công nhận khóa Đảng ủy mới đây đã khởi sắc. Song tôi cũng ngậm ngùi, khi anh Quang, người Bí thư cũ, trong chiến tranh nói rằng: Phong Sơn có 460 liệt sĩ. Những tinh hoa rực rỡ nhất của Phong Sơn đã mất mát quá nhiều. Cho nên cần hiểu về đội ngũ Phong Sơn thế nào đó cho thấu đáo.
Vấn đề được mổ xẻ kĩ càng nhất đều xoay xung quanh chuyện đất đai. Bởi ba yếu tố phồn thịnh là thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nhân đã hòa, thiên thời là cái khó chung của toàn tỉnh. Riêng Phong Sơn, địa chẳng lợi chút nào. Phong Sơn không có đất cát. Nhưng nó bị bạc màu, phần vì di ấn của chiến tranh, phần vì bị độ dốc xói mòn dữ dội. Những chân ruộng thấp độ chua phèn rất cao. Đã vậy mặt bằng rất mấp mô, độ cao thấp chênh lệch tới 5 mét. Khi ruộng thấp bị úng thì chân ruộng cao lại đang bị hạn.
Tôi hỏi:
- Trước chiến tranh, đất Phong Sơn trù mật lắm mà. Những xóm mít, những làng thanh trà đây từng nổi tiếng.
Anh Quang nhìn rất khái quát:
- Chiến tranh đã vắt kiệt nước, vắt kiệt sức đất, vắt kiệt sức của Phong Sơn rồi.
Trầm ngâm, tôi biết anh Quang đang sống lại thời quá khứ trong kí ức anh. Lát sau, anh chậm rãi nói:
- Trước chiến tranh, rừng kề sát làng. Nay đi suốt ngày vẫn thấy toàn đồi trọc. Trụi rừng, mất nước, các con suối điều tiết nước không đều nữa, nước chảy thốc chảy tháo. Nắng lên, cần nước, suối đã lại cạn rồi. Đất hoang hóa hàng chục năm, toàn cỏ tranh, lau lách, cây xấu hổ, màu mỡ còn đâu nữa. Tôi chứng kiến cái cảnh hòa bình, dân Phong Sơn dắt díu nhau về quê. Đối diện với lau lách bom mìn, hoang vu người dân chỉ có đôi bàn tay trắng. Rớt nước mắt anh ạ. Đôi bàn tay với cái cuốc, y như thời ông khai canh đưa con cháu đi khai phá ấy. Được thế ni, tôi nghĩ đã tận cùng sức lực rồi.
Tôi đi thăm lại cánh đồng. Độ cao thấp không đồng đều, trước mắt chưa thể tạo nên mặt bằng tổng thể bằng máy móc, vẫn có thể khắc phục được bằng ruộng bậc thang. Nếu làm ruộng bậc thang, điều phối nước cũng là việc phức tạp. Chính vì vậy, đến cả 4 hợp tác xã ở Phong Sơn đều thấy bật ra một yêu cầu hết sức bức bách, như là một lời kêu gọi khẩn thiết, đó là nước tưới.
Có một thời huyện hô lên làm thủy lợi sông Bồ rồi thôi. Rồi tỉnh làm đề án trạm bơm dinh, cũng mất tăm. Xã đề nghị huyện giúp làm đập khe Nam, lời đi thì có, lời về thì không. Hai nghìn mẫu đất của huyện Phong Sơn vẫn phải bám vào 14 chiếc máy bơm cũ kĩ chạy bằng than.
Máy của hợp tác, xã không có kỹ thuật, phải thuê người trông nom, vận hành. Tiền thuê mỗi máy một năm hết 11.000 đồng cộng với một tấn lúa. Hàng tạ luyn phải mua ngoài. Mỗi máy ăn 5.000 thùng than một năm.
Vụ đông xuân 1986, máy hỏng hàng loạt. Nước về chậm. Mạ để già. Cấy không đúng thời vụ, mất mùa. Đó là chưa kể những loại kỹ thuật lừa bịp, khai máy hỏng tùm lum để vòi tiền.
Máy nước ở đây vừa là niềm hy vọng, nhiều khi cũng là tai nạn. Tôi nhớ vụ đông xuân 1983, xã viên hợp tác xã Nam Sơn nháo nhác lên vì chủ nhiệm Nguyễn Lé ký hợp đồng tay đôi với Trần Phương, thuê lo toàn bộ máy nước, bảo đảm tưới đầy đủ cho hợp tác xã. Các hộ nhận ruộng khoán nộp đủ tiền cho Lé, cho Phương, bỗng Phương biến đâu mất. Ruộng đòi nước, dân hỏi Lé, Lé thét lác, làm lơ. Cuối cùng phải gõ đầu từng người dân, lên rừng đốt than, góp vào cho máy chạy. Nước về chậm, năm ấy mất mùa. Lẽ ra vụ ăn cướp này đã phải ra ánh sáng. Phương trốn, Lé phải đền. Sao đến nay vẫn im?
Chủ tịch xã Nguyễn Văn Châu cho tôi biết:
- Từ khi thực hiện chủ trương khoán, đã 11 vụ, Phong Sơn mất mùa 6 vụ.
Tôi hỏi:
- Vụ này mất mùa. Dự thu 720 tấn. Chi phí sản xuất tất cả hết 295 tấn. Còn 430 tấn. Nếu trả hết nợ Nhà nước, cộng với thuế và nghĩa vụ năm nay nữa, 380 tấn, dân Phong Sơn hơn 7.000 người chỉ còn 54 tấn lúa. Nghĩa là mỗi đầu người được 8kg.
- Vậy thì sống bằng cách nào.
Anh Xuân Hãn, bí thư xã trả lời thay Châu:
- Dân Phong Sơn lại phải trông vào rừng. Tranh tre, nứa lá, cùng với ít khoai sắn qua ngày chứ còn biết làm răng nữa. Dân Phong Sơn nợ Nhà nước thôi chứ không quỵt mô mà. Nói cho anh biết, Phong Sơn chủ động được nước tưới tiêu, sẽ chẳng thua kém ai.
Tôi nói:
- Phong Sơn không đủ sức lo thủy lợi thì đề nghị huyện đầu tư thêm cho.
Suy ngẫm hồi lâu, anh Hãn tâm sự:
- Nếu huyện quan tâm, đầu tư cho Phong Sơn một chút thôi, thì không đến nỗi. Đất lâm nghiệp nhiều, đất chăn nuôi sẵn. Đất cho cây công nghiệp dài ngày, ngắn ngày, có cả. Đất nông nghiệp đủ dùng. Phong Sơn có tiềm lực, hiềm nỗi dân Phong Sơn nghèo quá. Dốc vốn cho miếng ăn trước mắt đã không xong, lấy mô mà lo chiến lược lâu dài. Ấy là tôi chưa nói tới những phi lý mà huyện quàng vào cổ xã. Ví như thôn Đồng Dạ đó, huyện cắt của Phong An đưa sang Phong Sơn. Cắt người mà không cắt đất. Đành phải nhận đất xa của Phong Sơn thôi. Gần cũng 5 cây, xa thì 8 cây. Đến ruộng, trưa rồi còn chi, huyện tính cái hợp lý hóa ở chỗ mô không biết.
Nghe, nhưng tôi nghi ngờ: có thật huyện không đầu tư gì cho Phong Sơn? Hỏi kỹ, mới biết huyện lo cho Phong Sơn. Nhưng mới lo trên nghị quyết, trong giấy tờ. Hai lần đồng chí Phó Bí thư Huyện ủy về họp với Phong Sơn bàn kế hoạch phát triển mạnh vùng đồi. Chi tiết kỹ lắm, huyện giúp gì, xã làm gì. Nhưng khi đồng chí lên xe, thì mọi dự kiến cũng theo xe Phó Bí thư đi luôn. Huyện ra kế hoạch cho xã trồng mía, làm đường, trồng thuốc lá sợi nâu sợi vàng. Song vì chưa nghiên cứu kỹ thông thổ ở đây, thuốc cấy xuống, bị hạn, cháy sạch. Tiếp đến trồng mía. Vốn đầu tư nhiều, năng suất kém. Khi hạch toán, hụt vốn, tốn công. Phong Sơn không đủ sức, đành bỏ mía. Chiếc máy ép mía, bộ đồ nấu rượu mía còn đó, như vết sẹo của một thời. Người kỹ thuật của huyện về từ đó ra đi, không hề ngoái đầu lại. Huyện đầu tư cho Phong Sơn một trường cấp ІІ của xã thôi, bảy năm trời mới xong. Nếu không thực hiện Nhà nước, nhân dân cùng làm chắc cũng chưa xong đâu. Như hai năm nay, huyện hô hào Phong Sơn đã trồng 4 vạn cây, huyện chưa đưa về một hạt gạo nào…
Toàn “chuyện lạ có thật”. Di ấn của những chuyện như huyền thoại ấy là những câu ca dao đọc nghe xót tận ruột:
“Tỉnh dài, huyện rộng, xã to
Huyện ra kế hoạch, xã lo mà làm”
Và một dị khảo khác cũng xót xa như thế:
“Tỉnh to huyện rộng xã dài
Cán bộ đi không hết, việc ai, nấy làm”
Chẳng biết những câu ca này đã đến tai huyện hay chưa?
Đến Phong Sơn mới thật thương Phong Sơn. Càng thương hơn khi thấy Phong Sơn lắm thứ, y như gái dở thèm của chua ấy: kiểu như thèm một trạm bơm nước để làm ruộng. Thèm một đội khảo sát của huyện về đánh giá hết khả năng trồng trọt của mình. Thèm được huyện phân cho ít công cụ sản xuất để đỡ sức người, rồi thèm huyện đầu tư cho một cán bộ ra cán bộ… Không phải thèm ăn, toàn thèm làm mới lạ. Cứ đếm từng cái thèm, mới thấy Phong Sơn vẫn hằng khát khao đi lên, bằng người. Phải soi ống kính vào gốc ấy mới thấy ngoài hạt lúa và đầu heo, cần nhìn ở nhiều phương diện khác nữa mới thấy hết Phong Sơn. Như hạt kim cương kia, sở dĩ nó lấp lánh và nhiều màu sắc thế là nhờ ở cấu trúc đa diện của nó.
Chính vì vậy, tôi bỗng giật mình hốt hoảng khi về Cổ Bi, anh Thân, chủ nhiệm hợp tác xã Đông Sơn nói với tôi rằng, năm nay tổng chi phí sản xuất bằng đúng 67% thu nhập. Như thế có nghĩa là xã viên hợp tác xã, Nhà nước chỉ còn có được 33% số lúa làm ra. Vậy thì làm sao Phong Sơn ngóc đầu lên được.
Chợt một câu hỏi đè nặng lên lòng tôi: “ Làm thế nào để gỡ cho Phong Sơn bây giờ”.
Mang tâm trạng ấy, tôi đi lang thang trên đất Phong Sơn dưới ánh trăng thượng tuần. Con đường mòn vắt qua núi Sơn còn kia. Đường xuyên ngang cống Ồ Ồ còn kia, đó là hai múi đường thời chiến tranh nối từ chiến khu về đồng bằng Phong Quảng.
Tôi nhớ đêm 31 tháng 12 năm 1969, huyện gọi cán bộ chủ chốt bám trụ vùng sâu lên họp đầu năm chuẩn bị triển khai kế hoạch mới. Mấy ngày mưa triền miên. Đường ì oạp, nước lũng bũng, giao liên vừa dẫn đoàn cán bộ qua đồi thông, đến đất làng Xuân Điền Lộc thì bị phục kích. Mìn Clay-mo xếp dài hai bên đường đồng loạt nổ ập vào. Rồi lựu đạn nổ tối mắt, hàng trăm quả. 17 đồng chí hy sinh tại chỗ. Bọn địch canh gác không cho ta lấy xác. Chúng tới từng thi thể lột hết áo quần anh em mình, để phơi nắng cho mau rữa thịt. Đồng thời chúng ùa vào làng Đồng Lâm, cứ roi quất, miệng chửi: “Xanh vỏ đỏ lòng này! Ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản này! Theo Việt cộng này!”. Mỗi câu chửi một nhát roi chúng đánh không chừa ai, suốt từ em bé lên 3 đến ông già tóc bạc.
Kể sao hết trần ai, chỉ vì một tội Phong Sơn theo cách mạng.
Tôi nhớ đêm đang nằm ở hậu cứ, bây giờ đang ở giai đoạn tranh chấp vùng da báo sau Hiệp nghị Pari, chị Quả lên tìm chúng tôi, tay trái nâng cánh tay phải sưng vù, tím bầm bất động lên: “Chúng đánh dữ quá e không chịu nỗi. Các đồng chí cho tôi thoát ly thôi”.
Chúng tôi yêu cầu: “Lúc này mới là cách mạng cần bám dân bám đất nhất. Dẫu phải hy sinh tổ chức cũng yêu cầu đồng chí quay về”. Chị Quả gạt nước mắt trở về nơi phong trào như thế.
Những kỷ niệm qua, và cái hiện tại thế ấy, tôi có cảm giác rằng lâu nay Phong Sơn bị bỏ rơi chứ không phải Phong Sơn kém đến thế. Mai mốt quay về Huyện ủy, chắc chắn ông Bí thư Nguyễn Văn Chương sẽ hỏi tôi: “Phong Sơn thế nào”, tôi sẽ trả lời sao đây. Nói ngắn thôi, mà hàm súc, đầy đủ. Tránh nhất là nói chung chung, phải hết sức cụ thể. Và cuối cùng tôi đã tìm được một Phong Sơn thu gọn, rất điển hình, đó là gia đình chị Thỏn. Tôi sẽ kể cho ông nghe anh Quyền chồng chị là liệt sĩ, đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Từ đó một nách nuôi hai con, một nách cưu mang cách mạng, là một trong những đảng viên mật hăng hái nhất. Ngày ngày chị đi hái sim, bẻ chổi nuôi con, và lấy cớ đó lên gặp du kích bên bờ sông Lồ Ô thông báo tình hình địch và hợp đồng tín hiệu mật khẩu để đêm đón anh em về ấp. Bây giờ chị đã già. Một cháu trai đã đi bộ đội, theo bước chân cha, giữ nước, cháu trai thứ hai ở nhà, làm ruộng đóng đủ nghĩa vụ cho Nhà nước. Tôi vào nhà, chưa xong vụ gặt, cháu đã đi rừng, một mình nuôi mẹ.
Phong Sơn thế đấy. Hỏi còn đòi hỏi gì hơn. Không hiểu những điều tôi định nói, ông Bí thư có nhận ra không vì trong chiến tranh, ông không có mặt ở Phong Sơn, liệu ông có thông cảm cho không. Nhất là cuộc gặp gỡ vừa rồi, ông đã phật ý, liệu ông có chịu nghe, chịu tin tôi không. Song, tôi chắc rằng, không sớm thì chầy, tôi sẽ nói được cái gì đó cho Phong Sơn, và thế nào cũng sẽ gặp được những tấm lòng. Như Viện 268 của quân đội chẳng hạn, nghe chuyện Phong Sơn, về thăm Phong Sơn, họ quyết định sẽ nhận tất cả những bệnh nhân của Phong Sơn đưa lên viện. Có cái gì vi phạm nguyên tắc đấy, nhưng thật có tình. Nghe quyết định ấy, dân Phong Sơn rơm rớm nước mắt. Người ngoài cuộc còn rung động được thế, chẳng lẽ với Huyện ủy, những người trong cuộc không động lòng được sao?!.
Quả nhiên tôi đã gặp may, về tới văn phòng Huyện ủy, ông Bí thư và các anh em trong Huyện ủy đều nồng nhiệt đón tiếp tôi, khác hẳn hoàn toàn bữa tôi xin đi Phong Sơn hôm ấy.
Đúng như dự định, ông Bí thư hỏi tôi ngay:
- Thế nào? Phong Sơn thế nào?
Tôi nhận định ngay rằng mình “Trúng mánh”, vậy thì phải đi một nước cờ quyết định. Không nên trù trừ nữa. Trù trừ lúc này là bỏ lỡ thời cơ. Tôi nói:
- Phong Sơn trách ông đấy.
- Sao - Ông Bí thư hỏi thảng thốt.
Tôi đáp:
- Bà con nói thời ông Sĩ Hạc làm Chủ tịch, ông Hạc tới tận cánh đồng Bù Mẹ, Bù Con xa nhất rồi bàn với họ những thử nghiệm làm ăn. Đến thời ông Nguyễn Trung Chính làm Bí thư, ông Chính xuống họp với hợp tác xã vạch ra cho họ cái sai, động viên làm cái đúng. Từ ngày ông làm Bí thư huyện đên giờ, ông mới về tới văn phòng Đảng ủy hai lần, duyệt xong đề án, chiều lại lên xe về huyện ngay.
Ông Chương chột dạ thanh minh:
- Tôi có về hợp tác xã Nam Sơn đấy chứ?
- Vậy tôi biết tin ai bây giờ - Tôi nói - Có điều theo ý tôi, ý nghĩa của người lãnh đạo là chỗ mỗi bước đi của họ đều tạo ra một luồng gió mới. Hợp tác xã Nam Sơn vẫn là hợp tác xã bét huyện, vậy ông phải coi lại nửa bước đi của mình.
Thấy ông Chương ngồi im chịu chuyện, được đà, tôi luôn nước cờ thứ hai:
- Tôi lo cho Phong Sơn quá. Khoản chi phí cho cây lúa cao, làm rối tinh cả kế hoạch của hợp tác và đời sống xã viên. Vì thế lần mãi không ra đầu mối.
Ông Chánh văn phòng đủng đỉnh nói:
- Gì mà không lần ra đầu mối. Họ chỉ khó cái thủy lợi thôi.
- Đúng thế - Tôi đáp - Điều tôi muốn nói là ở chỗ các anh biết rõ ràng, song các anh đã giúp được gì cho nó. Hay chỉ biết ca thán nó không làm được cái này, không làm được cái kia. Thói quan liêu thời đại đã được nhân dân đúc trong bốn chữ như một câu tục ngữ: “Biết - Bàn – Bí - Bỏ”.
Tôi liền kể cho ông Bí thư và Chánh văn phòng nghe rằng, anh Nguyễn Văn Nhu Phó Bí thư Đảng ủy xã Phong Sơn, có cái giọng khôi hài chua chát, đã nói với tôi: Lần nào ông đi họp cũng được cấp trên vỗ vai dặn dò thân tình: “Phong Sơn gắng lên nghe trên này huyện ủy chú ý lắm đấy”
Về xã, chờ mãi chẳng thấy được “chú ý” gì. Họ đang mong chú ý của huyện dài cả cổ dưới ấy.
Lại thêm một điều bất ngờ nữa, ông Chương đã đồng tình với ý kiến của tôi. Ông trở nên cởi mở:
- Cái này cuộc họp phê bình và tự phê bình của Huyện ủy cũng vừa kiểm điểm xong. Huyện có đầu tư cho điểm nhưng chưa đầu tư cho diện. Tỉnh cũng phê huyện chưa chú ý thích đáng đến thế mạnh gò đồi. Mà cũng phải đổi mới cả các ngành nữa. Có chủ trương cả đấy, nhưng khâu tổ chức thực hiện rối quá. Như việc đã bàn cho dân Phong Sơn vay vốn chăn nuôi. Nhưng họ sợ Phong Sơn không làm nổi, nên đã rụt lại. Muốn thực hiện được phương án kinh tế, còn phải kết hợp cả với phương án xã hội nữa.
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Ra luồng gió xu thế mới của thời đại đã thổi đến đất Hương Điền này, làm nhanh chóng thay đổi thời tiết ở đây. Ý kiến của tôi lúc này thật đúng lúc. Cái thực đã hài hoà với cái nghĩ và cái làm. Và có lẽ cũng vì thế sự ngộ nhận ở ông Bí thư với tôi cũng đã qua được nhanh. Sự chân thành này đã đến lúc có thể bàn với nhau những điều cần thiết. Tôi gạt bỏ ngay trong tôi sự đề phòng, đối phó. Một dự định hay vụt đến, tôi mạnh dạn trình bày ngay:
- Qua đợt đi Phong Sơn vừa rồi tôi thấy giữa Phong Sơn và Huyện ủy có những điều chưa gặp nhau. Hãy đừng coi thường yếu tố nhất quán. Phải nhất quán mới đồng lòng. Có đồng lòng mới làm được mọi việc. Tôi đề nghị thế này ông xem có được không. Một buổi nào đó, huyện nên chủ động đi, mình là người lãnh đạo mà. Ông, đồng chí Chánh văn phòng, đồng chí Huyện ủy viên phụ trách cụm Phong Sơn, nếu có cả chính quyền nữa càng hay, về gặp trực tiếp Đảng ủy, Ủy ban Phong Sơn, có gì mắc míu với nhau, có gì chưa đồng nhất, hãy nói hết với nhau đi. Phân định cho rõ, lỗi ở xã, xã nhận, lỗi ở huyện, huyện nhận. Bàn cả phương thức đầu tư cho xã nữa. Được như thế, nhất định Phong Sơn sẽ lên và tôi rất muốn được chứng kiến từ đầu đến cuối cuộc gặp gỡ tình nghĩa này.
- Rất hoan nghênh, chúng tôi sẽ làm và sẽ mời anh - ông Chương bắt tay tôi như để đóng đinh giao kèo.
Trong niềm hồ hởi, cởi mở ấy, ông Bí thư thông báo với tôi rằng huỵên đã quyết định chi ngân sách 68 triệu đồng cho Phong Sơn, Phong Xuân làm hồ chứa nước Khe Quay, hồ sẽ tưới nước cho 23000 hec-ta đất ở đây. Như vậy, vấn đề nước của Phong Sơn đã chuyển. Cả 4 hợp tác xã đã thay đổi hàng loạt cán bộ mới. Đoàn Thanh niên và Hội Phụ nữ đã được tổ chức lại. Tiếng nói của nó lấy lại được trọng lượng. Đồng ruộng đang bước đầu quy hoạch phù hợp với tình hình máy móc, nước nôi.
Tôi nói:
- Đồng chí Bí thư Đảng ủy xã nói với tôi: chúng tôi đã nói với hơn 7000 dân Phong Sơn của chúng tôi rằng: những ngọn cờ đã cuốn lại, phải mở ra đi. Phải chăn nuôi mới dễ thở. Phải trồng đậu phụng, trồng ớt là thế mạnh của đất Phong Sơn. Phải trồng cây lâm nghiệp lo cho con cháu. Trước mắt Phong Sơn hãy đừng chờ ai. Hãy trông chờ vào hai bàn tay của mình. Trong chiến tranh chúng ta đã anh dũng ngẩng đầu lên thì bây giờ phải không được cúi xuống.
Cho đến lúc này ông Chương mới nở một nụ cười:
- Thế là thằng Phong Sơn đã cất cánh rồi. Nói vậy chứ, huyện không đầu tư, lúc này Phong Sơn không ngóc đầu dễ dàng đâu.
Tôi ước ao, giá có Phong Sơn ngồi đây, được chứng kiến cuộc nói chuyện này, để khẳng định thêm hướng đường Phong Sơn đã tự vạch. Phải nắm bắt xu thế mới này. Dĩ nhiên còn phải căng mình ra đấy, nhưng niềm vui ở chỗ Phong Sơn đã nhìn ra chân trời của mình. Tôi cũng tin là Phong Sơn sẽ bật dậy mạnh, ngay từ phút giây này tôi đã nôn nao nỗi ngóng chờ.
N.Q.H
(SH21/10-86)
LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.
MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.
VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.
DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.
NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )
TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.
ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.
PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư hoàn cảnh”.
ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.
DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...
TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!
LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.