Lỗi tại cây cầu

13:51 08/08/2011
LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...

Minh họa: Internet

Trung Quốc, đầu những năm 80, nhất là sau khi tạp chí Vi hình tiểu thuyết tuyển sanquảng diễn bạn đọc vào năm 1984, thì thể loại truyện cực ngắn bắt đầu thịnh hành. Nhìn chung truyện cực ngắn có những đặc điểm như: dung lượng ngắn, nhịp điệu diễn trình của các chi tiết nhanh và mạnh, chấp chới giữa ranh giới của thơ và truyện. Đó là những lát cắt mỏng trong cuộc sống đương đại khi con người đối diện với một quái trạng văn hóa bùng nổ trong một thế giới đầy rẫy sự ngụy tạo.

Tạp chí Sông Hương kỳ này xin giới thiệu đến quý bạn đọc một truyện cực ngắn của Du Phượng Lâu (Trung Quốc) qua sự chuyển ngữ của Nguyễn Thị Bích Hải.




DU PHƯỢNG LÂU


Lỗi tại cây cầu


Cô giáo Liễu, họ liễu, tính lại thích liễu. Liễu không có nước không thể sống được. Cô sinh ra ở làng Liễu Khê, vừa có liễu vừa có suối. Cuộc đời cô có thể nói là xuôi buồm thuận gió: học xong tiểu học thì lên học sơ trung (trung học cơ sở), học xong sơ trung thì thi vào trường trung học sư phạm, rồi lại được về dạy học ở Liễu Khê.

Suối Liễu ở phía đông thôn, nguồn suối ở trên núi, ngày đêm nước chảy dạt dào, chảy về phương xa. Dòng suối như một thanh kiếm sáng loáng, chia cách hai bờ. Từ khi có ngọn khói bốc lên ở thôn Liễu Khê, các bậc nhân sĩ có chí đã muốn bắc một cây cầu để nối hai bờ. Đó là việc công đức. “Bắc cầu, làm đường, con đàn cháu đống”, bắc một cây cầu là lập một tấm bia, những nhà không có con đều tranh nhau làm. Thế là, hầu như mùa thu năm nào trên suối cũng có một cây cầu độc mộc đơn giản bắc qua.

Nhưng cứ đến trận mưa năm sau cầu lại bị lũ quét cuốn mất, dòng suối vẫn là thanh kiếm chia cách hai bờ. Người ta bảo đó là do người bắc cầu không thành tâm! Người bắc cầu lại bảo nước suối bất nghĩa. Ai đúng ai sai, chẳng ai bình luận.

Cô giáo Liễu dạy tiểu học ở Liễu Khê, có một phần ba học sinh ở phía đông suối Liễu, bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đều lội qua suối đến học. Ba mùa xuân, hạ, thu nước suối dịu dàng như tay người mẹ ve vuốt bàn chân con trẻ, gội hết cáu ghét, xoa gãi bàn chân ngứa ngáy. Mùa đông nước suối lạnh buốt, như cắt thịt da. Cô giáo Liễu hồi nhỏ cũng từng nếm mùi lội suối mùa đông: mới đầu chân như bị chó cắn, đau như kim đâm, sau đó thì tê dại như hai khúc gỗ. Thế là cô trịnh trọng tuyên bố: các em ở phía đông suối, đến mùa đông đi học không được cởi giày lội suối, cô sẽ cõng từng em qua suối.

Mùa hạ, lũ quét cuồn cuộn, suối rộng và sâu hơn, cha mẹ không cho học sinh đến trường, phòng học trống mất một phần ba. Trái tim cô giáo cũng trống trải. Để cho phòng học được đông đủ, cũng là để bù đắp nỗi trống trải trong trái tim, sau mỗi cơn mưa lớn, cô Liễu lại hẹn giờ qua suối gõ cửa từng nhà đón học sinh.

Sự tích cô giáo Liễu cõng học sinh qua suối theo dòng Liễu Khê chảy đến phương xa...

Huyện, rồi khu, rồi tỉnh đều tuyên dương cô giáo Liễu là “Giáo viên ưu tú”.

Bốn mùa thay đổi, suối nước dạt dào. Cô giáo Liễu được tuyên dương vẫn cứ cõng học sinh qua suối mùa đông và sau những cơn mưa lớn. Nhưng lại có thêm một câu chuyện mới - cô dẫn học sinh đi khai hoang, trồng cây. Cô định bắc một cây cầu, dự toán kinh phí khoảng 1000 đồng nhân dân tệ (khoảng 3 triệu đồng). Một nghìn rốt cuộc đã lo đủ. Tiền lao động được 500 đồng, cô giáo Liễu tự góp 500 đồng tiền tiết kiệm của mình nữa. Người nhận thi công cảm động trước tinh thần của cô giáo Liễu, cố gắng ngày đêm, thông cầu ngay trước ngày “giáo sư tiết” (lễ nhà giáo, ngày 1 tháng 10). Đôi bờ bị chia cách mấy trăm năm giờ đã được nối liền.

Trên cầu không lập bia, cũng không cắt băng khánh thành, chỉ vang lên tiếng cười giòn giã và tiếng bước chân rộn ràng của trẻ thơ. Nhưng những âm thanh ấy gõ rộn rã trong trái tim cô giáo Liễu, dậy lên những làn sóng ấm áp.

Kỳ nghỉ đông đã đến, lại đến công việc mỗi năm một lần xét duyệt “giáo viên ưu tú”. Nhưng, lần này báo cáo thành tích cô giáo Liễu của trường tiểu học Liễu Khê gửi lên cấp trên đã nhanh chóng bị trả về. Trên bản báo cáo ghi rõ: Thiếu thành tích điển hình cõng học sinh qua suối, không đạt “tiêu chuẩn cứng”.

Cô giáo Liễu biết được điều ấy, đem các giấy khen, bằng khen của huyện, của khu, của tỉnh tặng cho cô mấy năm qua trải trên dòng suối dạt dào. Cô nghĩ: “Vinh dự này thuộc về dòng suối, nên trả lại cho nó”.

Các em học sinh như thể có hẹn hò nhau, vác vồ, búa đến đập cây cầu đá, định đập gãy cây cầu. Bởi vì chúng nghe nói: Vì có cây cầu này nên cô giáo Liễu mới không được công nhận cô giáo ưu tú.

Liễu không có nước không thể sống.

Cô giáo Liễu, họ Liễu lại thích liễu, có lẽ cũng không xa nước được chăng...
 

DU PHƯỢNG LÂU
Nguyễn Thị Bích Hải dịch 
(Truyện đăng trên
 Vi hình tiểu thuyết tuyển san số 1)
(268/06-11)









Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.

  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.

  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.