Lê Thừa Tiến- họa sĩ của thời mở cửa

15:09 07/04/2017

Vừa qua, Lê Thừa Tiến là họa sĩ Huế duy nhất được chọn tham gia triển lãm “Mở cửa mỹ thuật 30 năm thời kỳ đổi mới” do Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh & Triển lãm (Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch) tổ chức tại Hà Nội năm 2016.

Họa sĩ Lê Thừa Tiến

Trong những năm đổi mới và hội nhập của mỹ thuật Việt Nam, nhiều họa sĩ Huế với các độ tuổi khác nhau đã góp phần tích cực trong sáng tạo nghệ thuật giai đoạn 1986 – 2016, như họa sĩ Vĩnh Phối, Trương Bé, Bửu Chỉ, Hoàng Đăng Nhuận,  Phạm Đại, Dương Đình Sang, Nguyễn Duy Linh, Hồ Sỹ Ngọc, Lê Thừa Tiến, Trần Hữu Nhật, Phan Hải Bằng, Lê Văn Nhường, Võ Xuân Huy, Phạm Trinh, Nguyễn Thị Huệ, Tô Trần Bích Thúy, Nguyễn Tuấn… Nhưng tại triển lãm “Mở cửa mỹ thuật 30 năm thời kỳ đổi mới” do Cục Mỹ thuật, Nhiếp Ảnh và Triển lãm tổ chức vừa qua, chỉ có một người Huế duy nhất là Lê Thừa Tiến trong số 49 họa sĩ toàn quốc được chọn tham gia triển lãm “đình đám” này.

Đây là một trong những điều vinh dự lớn cho họa sĩ Lê Thừa Tiến, anh đã mang lại một luồng sinh khí mới cho đời sống mỹ thuật ở Huế và góp phần khẳng định dấu ấn trong sáng tạo nghệ thuật thời kỳ đổi mới với những cái nhìn đã khác xưa, tư duy hình tượng khác lạ những vẫn giữ được năng lực sáng tạo, tố chất mạnh mẽ, khát khao sáng tạo ẩn dấu tiềm tàng bên trong của mình.

“Chắp tay sen”

Việc chỉ có một họa sĩ Huế duy nhất là Lê Thừa Tiến tại triển lãm được xem là sự kiện văn hóa nổi bật ở Việt Nam tháng 12/2016 cho thấy sự lựa chọn khá khắt khe của các giám tuyển (curator). 

Lê Thừa Tiến sinh năm 1964, sinh năm 1964 tại Huế, nguyên quán Mỹ Xuyên, Phong Điền, tốt nghiệp cử nhân mỹ thuật tại Đại học Mỹ thuật Huế, rồi làm giảng viên tại Khoa Hội họa của trường. Từ năm 1995 – 1996, anh tu nghiệp trên đại học tại Học Viện Mỹ thuật Hoàng gia (Rijksakademie van Beeldende Kunsten) Amsterdam, Hà Lan. Năm 2008 – 2009, tốt nghiệp thạc sĩ Mỹ thuật, Trường Nghệ thuật và Thiết kế (Arts & Design UNSW), Đại học New South Wales, Sydney, Úc. Sau khi về nước, anh chọn cho mình con đường riêng là nghệ sĩ tự do, từ đó anh sáng tạo và tìm kiếm những cơ hội triển lãm, giao lưu quốc tế và tạo dựng thị trường tranh của mình. Đó là một sự “táo bạo”, một sự “mở” khác mà anh lựa chọn với bao khó khăn phía trước.

“Việt Nam cuộc chiến tranh hóa thạch”

Bóng đổ - tác phẩm sắp đặt

Khi còn là giảng viên của Khoa Hội họa, nhiều sinh viên rất hâm mộ và thích cách dạy đòi hỏi tố chất sáng tạo cao cũng như phải có tư duy mẫn cảm trong nghệ thuật mà anh khởi xướng. Anh dạy sinh viên muốn trở thành họa sĩ thì phải học và nắm thật vững vàng kỹ năng tạo hình hàn lâm, nhưng không vì vậy mà quá cứng nhắc, trói mình vào những bài học kinh điển mà phải có tinh thần sáng tạo. Trong thời gian này, Lê Thừa Tiến bằng nhiệt huyết và đam mê nghệ thuật của mình, đã giới thiệu cho công chúng nghệ thuật về nghệ thuật Sắp đặt, vốn lúc này vẫn còn mới mẻ ở Việt Nam. Họa sĩ Lê Thừa Tiến tham gia nhiều hoạt động nghệ thuật tại Huế, trong đó có những tác phẩm sắp đặt đầy ấn tượng được dựng lên trong các kỳ Festival tại Huế. Công chúng vẫn nhắc đến những sáng tác của anh như tác phẩm “Đông về” rất gần với Quốc họa (chất liệu lụa – 50 x 110, sáng tác năm 1989, anh vẽ  một đàn kiến di chuyển theo đường sóng và chạy dài ở trục dọc của tranh, những con kiến bé nhỏ, mong manh nhưng đầy sức mạnh ý chí tồn tại trong sa mạc mênh mông của kiếp đời. Tác phẩm thực sự là ẩn dụ về bao gian lao trên cõi trần của những kiếp người và sự tha hóa của tự nhiên. Hay tác phẩm sắp đặt “Ánh trăng” có tiết diện trưng bày 140m2 tại Festival Huế 2002 đầy ấn tượng với màu tím Huế xao động hiện ra qua những hình sắc nổi chan hòa ánh sáng trong trẻo... Festival Huế 2002 còn có tác phẩm “Hoa cỏ” với 7.000 chiếc chong chóng bằng giấy cắm trên bãi cỏ xanh, gợi lên những nỗi niềm và sự nghĩ suy về cuộc sống đầy năng động.

Họa sĩ Lê Thừa Tiến đã có các triển lãm tại Mỹ (1997, 1998, 2007), Úc (2006, 2009), Campuchia (2011), Pháp (1992, 1997, 2012), Hà Lan (1995, 1997, 2004, 2013), Đức (1998), Thái Lan (1998, 2014), Venezuela (2001), Nhật Bản (2013, 2016), Myanmar (2013)… và một số giải thưởng nổi bật: 1997/1998: Freeman Asian Artists Award, VSC, Vermont, Hoa Kỳ; 2011: Heinrich Boell Foundation Grant; 2015 & 1997: Vermont Studio Center Fellowship, cùng nhiều triển lãm ở Việt Nam…

Lê Thừa Tiến còn được công chúng yêu nghệ thuật biết đến với vai trò là một nhịp nối trong các hoạt động nghệ thuật giữa người họa sĩ với công chúng, với một số tổ chức văn hóa nước ngoài mà anh có cơ hội sáng tạo, triển lãm, giao lưu nghệ thuật. Như “Gạo và Đất” (chất liệu tổng hợp), “Bóng đổ” – 1998 vừa là sắp đặt, vừa là một tác phẩm tương tác sinh động của anh. Nhưng đến “Việt Nam cuộc chiến tranh hóa thạch” được trưng bày ở Mỹ năm 1998 và tại Đức 1999 thì sự ám ảnh chiến tranh, cách nhìn về cuộc chiến, về hậu chiến đã rất mới mẻ. Riêng tác phẩm “Chúng ta từ đâu đến” trưng bày tại Nhật Bản năm 2003 đã gây xúc động mạnh bởi lối trình diễn nghệ thuật đầy mới lạ mà lay động của anh, sự ám thị không gian, thời gian và sức mạnh dân tộc tính trong nghệ thuật. Năm 2009 tại Sydney (Úc), Lê Thừa Tiến trưng bày tại Trung tâm Nghệ thuật Casula Powerhouse 2 tác phẩm “Chắp tay sen” và “Nụ cười của Phật” làm bằng (giấy bồi) và gốm Raku (Nhật Bản). Đó cũng là cách nhìn nhận đầy nội tâm của anh về khát vọng đoàn viên của dân tộc sau những tháng năm chiến tranh bi thương, mất mát và ẩn dấu tinh tế, hướng về bình an, hạnh phúc thấm đượm dấu ấn Phật giáo – mà Huế là một trong nơi thẩm đẫm tinh thần này.

Thay lời kết, xin trích đánh giá của TS Suzanne Lecht, Giám đốc nghệ thuật, Gallery Art Vietnam: “Lê Thừa Tiến là một nghệ sĩ với cuộc đời và tác phẩm thấm đẫm ký ức xuyên suốt những sáng tạo của ông; phong phú về chất liệu lẫn loại hình; từ hội họa, điêu khắc, nghệ thuật sắp đặt, đến các dự án nghệ thuật cộng đồng; tất cả đều thể hiện một chiều sâu tâm linh; một vẻ đẹp thuần khiết, thánh thiện. Các tác phẩm sơn mài gần đây nhất của ông, mở ra những khoảng không sâu thẳm, trống rỗng và đơn sắc, như đánh thức lại niềm hoài nhớ về những phế tích cổ xưa, tưởng chừng đã mãi mãi bị lãng quên trong dòng chảy của lịch sử và thời gian. …Đó là không khí thiền định khi ta suy tư và cảm nhận về cái uy nghiêm của thời gian trước những gì còn sót lại”.

Nguồn: TS Phan Thanh Bình - TTH

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Lăng mộ của chúa Nguyễn Phúc Tần còn được gọi là lăng Chín Chậu, có nhiều nét độc đáo so với lăng mộ các chúa Nguyễn khác.

  • BAVH - là các chữ viết tắt của bộ tập san bằng tiếng Pháp với nhan đề: “Bulletin des Amis du Vieux Hué” (Tập san của những người bạn Cố đô Huế”. Trước đây tập san này có tên gọi là “Đô thành Hiếu cổ”. Bộ tập san này (sau này người ta gọi là tạp chí) được xuất bản và lưu hành tại Việt Nam và Pháp từ năm 1914 đến năm 1944. Thế là tròn 100 năm ra đời bộ tạp chí danh tiếng này.

  • Theo truyền thuyết, ngày xửa ngày xưa, có một vị thần gánh đất để ngăn sông đắp núi. Một hôm vị thần đó đang gánh đất thì bỗng nhiên đòn gánh bị gãy làm hai, nên bây giờ đã để lại hai quả đất khổng lồ khoảng cách nhau hơn một km đó chính là núi Linh thái và núi Túy Vân ngày nay thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

  • Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát. Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?

  • Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình. 

  • Trái với sự nổi tiếng của lăng mộ các vua nhà Nguyễn, lăng mộ 9 chúa Nguyễn ở Huế không được nhiều người biết đến...

  • Nhắc đến vua Minh Mạng, người đời nghĩ đến ngay hình ảnh của một quân vương nổi tiếng quyết đoán và giai thoại về năng lực giường chiếu phi thường.

  • Chiều 3/10, chiếc xe kéo của Hoàng thái hậu Từ Minh, mẹ vua Thành Thái chính thức được chuyển vào Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp để chuẩn bị đưa về Việt Nam. 

  • Đèo Hải Vân nằm trên dãy Trường Sơn, ở ranh giới 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế (phía bắc) và TP.Đà Nẵng (phía Nam). Đây là con đèo hiểm trở nhất dọc tuyến đường bắc nam, do có vị trí địa lý hiểm yếu, bởi kiến tạo địa chất của dãy núi cắt ngang đất nước, từ biên giới phía Tây tới sát biển Đông.

  • Cứ đến gần cuối năm, khi lúa trên rẫy đã đến độ chín vàng. Trời đông cũng đang se sắt lạnh, sương trắng bồng bềnh bay trên đỉnh núi A Túc là lúc mà toàn thể dân làng dù là tộc người Pacôh, TàÔi, Cơtu hay Pa hy.

  • Là điểm du lịch nổi tiếng của Thừa Thiên - Huế, Bạch Mã có rất nhiều nơi để tham quan như: Thác Đỗ Quyên, Ngũ Hồ, Vọng Hải Đài với vẻ đẹp của núi trời như một bức tranh thủy mặc.

  • Sau chiến tranh, gần 2/3 trong tổng số gần 300 công trình kiến trúc nghệ thuật cung đình của cố đô Huế trở thành phế tích, số còn lại trong tình trạng hư hại, xuống cấp nghiêm trọng. Cùng với việc nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã mở cuộc vận động bảo vệ di tích Huế và đạt kết quả to lớn.

  • Được xây dựng cách đây hơn 400 năm với bao biến động nhưng chùa Thiên Mụ vẫn giữ được vẻ uy nghi, thanh tịnh và cổ kính bên dòng sông Hương...

  • Không nơi đâu người phụ nữ lại thích mặc áo dài như ở Huế. Thậm chí, chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của các cô gái Huế. Điều đó đã làm cho  du khách khi đến với Huế nhiều khi phải ngẩn ngơ khi có dịp được ngắm nhìn, chiêm ngưỡng.

  • Thời 13 vua Nguyễn (1802-1845) trị vì triều đại phong kiến cuối cùng Việt Nam đóng kinh đô tại Huế đã ghi nhận một số hoạt động khá phong phú của ngựa, dù thời này ngựa ít được dùng vào hoạt động quân sự.

  • Trong tất cả các triều đại phong kiến, duy nhất ở cố đô Huế có Bình An Đường là nhà an dưỡng và khám, chữa bệnh đặc biệt chỉ dành riêng cho các thái giám, cung nữ (thời vua nhà Nguyễn).

  • Huế, miền đất cố đô nằm ở miền trung Việt Nam, vẫn được biết đến như một thành phố thơ mộng và lãng mạn.

  • Đối với di sản văn hóa của dân tộc, tài liệu châu bản là một di sản có giá trị lớn. Đó là ký ức của lịch sử, là nguồn sử liệu gốc có ý nghĩa to lớn đối với việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đều không còn lưu giữ được nguồn tài liệu quý báu này, trừ triều Nguyễn (1802-1945), do những điều kiện lịch sử đặc biệt.

  • Hình ảnh thiên nhiên, con người và những lăng tẩm đền đài của xứ Huế vương vấn bước chân du khách mỗi lần có dịp ghé qua...

  • Làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ) và làng An Nông (xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên- Huế) là nơi lưu giữ những tài liệu chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa của nước ta. Những tài liệu quý hàng trăm năm tuổi được người dân các ngôi làng này xem như báu vật và dốc sức giữ gìn.