Lễ hội cung đình triều Nguyễn nhìn từ góc độ văn hoá và du lịch ngày nay

16:06 16/03/2009
PHAN THUẬN ANLễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa phương và của từng quốc gia.

Tất cả 54 tộc người trên đất nước ta đang bảo tồn được một số lượng lễ hội truyền thống rất phong phú và đa dạng. Chúng giữ một vị trí xứng đáng trong kho tàng văn hoá của dân tộc.

Hiện nay, nhìn chung trong cả nước, lễ hội dân gian thì địa phương nào cũng có và đang diễn ra hàng năm; nhưng, về lễ hội cung đình thì chỉ Huế mới có khả năng phục hồi. Lý do rất dễ hiểu: đây từng là kinh đô cuối cùng trong lịch sử các triều đại quân chủ Việt , và triều đại quân chủ cuối cùng ấy, triều Nguyễn (1802 - 1945), mới chấm dứt cách đây chỉ hơn nửa thế kỷ. Vả lại, Huế là cố đô duy nhất còn bảo lưu được tương đối nguyên vẹn diện mạo của hệ thống kiến trúc cung đình của một thuở vàng son và ngoại cảnh thiên nhiên kỳ tú, thơ mộng của nó. Có thể nói đây là một thành phố bảo tàng, nơi còn duy trì được khá đầy đủ các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể, bao gồm thành quách, cung điện, lăng tẩm, đàn từ, quốc tự, hàng ngàn hiện vật của vua chúa và quan lại, nhiều tư liệu lịch sử quí báu, những chứng nhân lịch sử cao niên, vv... Nhìn từ góc độ bảo tồn bảo tàng, cũng có thể cho rằng Cố đô Huế là một kho sử liệu sống động về các triều đại quân chủ Việt .

Với các loại hình di sản văn hoá ấy, nhất là với bối cảnh kiến trúc cổ kính ấy, người ta có thể tái hiện những lễ hội cung đình đã từng diễn ra tại đây; tất nhiên là để giới thiệu một cách sinh động những đặc trưng văn hoá nghệ thuật cao cấp của một thời và để phục vụ du lịch.
Thật ra, về mặt thuật ngữ, “lễ hội” là một từ tương đối mới, chỉ được sử dụng một cách phổ biến trong mấy chục năm nay, đặc biệt là để chỉ các lễ hội dân gian. Còn những sinh hoạt lễ nghi tập thể của các vua quan ngày xưa ở chốn cung đình thì chỉ thấy các sử gia triều Nguyễn ghi là “triều hội” (hội họp của triều đình).

Thời ấy, hoạ hoằn lắm mới thấy thi hào Nguyễn Du diễn tả ý chung của từ lễ hội trong một câu thơ ở truyện Kiều:
“Thanh minh trong tiết tháng ba,
  Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”.

Nhưng, từ “lễ” và từ “hội” ở đây vẫn nằm trong hai mệnh đề khác nhau của câu thơ. Dù sao, qua tư liệu văn học này, chúng ta cũng có thể thấy người xưa đã chia nội dung của loại hình sinh hoạt văn hoá đang bàn ra làm hai phần khá rõ ràng, là phần lễ và phần hội.
Tìm hiểu về diễn tiến của các lễ hội cung đình trước năm 1945, chúng tôi thấy phần lễ được đặt nặng hơn là phần hội. Nhưng, ngày nay, do nhu cầu của thời đại, nếu chúng ta phục hồi thì chắc hẳn phần hội phải được xem là quan trọng hơn phần lễ.

Theo dõi các thuật ngữ mà người Tây phương đã dùng để chỉ lễ hội, như cérémonie (ceremony), fête, festival, chúng tôi thấy chúng mang những nội dung khác nhau đôi chút:
- Ceremony: có ý nghĩa thiên về lễ nghi, lễ thức, lễ bái, cúng bái.
- Fête: lễ lạt, đình đám nói chung.

Festival: thiên về hội hè, liên hoan có rất nhiều người thuộc nhiều thành phần tham dự, chẳng hạn như “jazz festival” (liên hoan nhạc jazz).

Dù sao đi nữa, các thuật ngữ đó cũng đã được dùng để chỉ những sinh hoạt văn hoá nghệ thuật cộng đồng; liều lượng của  phần lễ và phần hội bên nào nhiều hơn hoặc ít hơn là còn tuỳ thuộc vào từng loại hình lễ hội ngày xưa và tuỳ theo sự gia giảm của các nhà tổ chức lễ hội ngày nay.

Trở lại với các lễ hội cung đình ở Huế xưa kia, sử sách triều Nguyễn đều ghi nhận chúng như là những cuộc lễ mang tính quốc gia, do Nhà nước Trung ương đứng ra tổ chức và thực hiện. Có hàng chục cuộc lễ lớn nhỏ khác nhau được cử hành hàng năm ở đất Thần kinh. Chúng đã được triều đình quy định rất chặt chẽ và nghiêm túc, thậm chí được ghi thành điển lệ. Từ vua quan đến dân chúng, từ hoàng gia đến bá tánh đều phải tuân thủ những điển lệ nghiêm ngặt ấy. Các sử sách bấy giờ đã ghi rõ tên gọi, nội dung và ý nghĩa của các cuộc lễ để nhấn mạnh tầm quan trọng của triều đình trong thể chế chính trị và sinh hoạt văn hoá của nhà nước quân chủ. Các lễ hội dưới triều Nguyễn cũng đã được ghi chép, tường thuật, phản ánh qua một số sách báo, phim ảnh do các tác giả người Tây phương và người Việt sống vào cuối thể kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX để lại, đặc biệt nhất là qua Tập san Đô Thành Hiếu cổ (Bulletin des Amis du Vieux Húe)

Người được triều đình giao cho nhiệm vụ đứng ra tổ chức các lễ hội là Bộ Lễ, một trong Lục Bộ thời Nguyễn sơ. Nhưng, có một số các đại lễ còn liên quan ít nhiều đến nhân sự và công việc của các Bộ khác, các cơ quan hành chánh thuộc phủ Thừa Thiên và cả đến một số đơn vị hành chánh thuộc các tỉnh trong nước.
Theo những tư liệu chính thống của triều Nguyễn, các lễ hội cung đình bấy giờ được chia làm 2 loại: loại Tiết lễ và loại Tế tự.

- Loại Tiết lễ: gồm các kỳ triều hội hàng tháng (Lễ Đại triều ở điện Thái Hoà, Lễ Thường triều ở Điện Cần Chánh); 3 cuộc lễ Đại tiết hàng năm (Tết Nguyên đán vào ngày đầu năm âm lịch, Tiết Đoan dương vào ngày mồng 5 tháng 5, Tiết Vạn thọ vào ngày sinh nhật của vua); Lễ tế Tiên nông ở khu ruộng Tịch điền vào mùa hạ; Lễ Ban sóc (phát lịch năm sau vào tháng chạp năm trước); Lễ Đăng quang (Vua lên ngôi); Lễ đại táng (đưa đám vua)...

- Loại Tế tự: gồm Lễ tế Trời Đất ở Đàn Nam Giao; Lễ tế Xã Tắc (Xã là Thần đất và Tắc là Thần lúa; Lễ tế Liệt miếu (những miếu thờ tổ tiên của các vua triều Nguyễn); Lễ tế Thế miếu (nơi thờ các vua Nguyễn quá cố); Lễ tế Văn Miếu (nơi thờ Khổng Tử)...
Ngoài ra, triều đình còn cử hành các lễ hội thường kỳ và bất thường kỳ sau đây: Lễ Tiến Xuân ngưu vào ngày Lập xuân; Lễ Thanh minh; Lễ Trùng cửu; Ngày Hổ quyền; Lễ Phất thức; Lễ Thánh thọ (sinh nhật Hoàng Thái hậu), Lễ Tiên thọ (sinh nhật Hoàng Thái phi), Lễ Thiên xuân (sinh nhật Hoàng Thái tử), lễ Thiên thu (sinh nhật Hoàng hậu); Lễ Hưng quốc Khánh niệm (ngày mồng 2 tháng 5 âm lịch); v.v...

Trong tất cả các lễ hội cung đình ấy đều có phần âm nhạc đi kèm. Một số lễ hội quan trọng còn có cả các tiết mục ca và múa.

Như vậy, các lễ hội cung đình ngày xưa ở Kinh đô Huế là rất phong phú và đã từng diễn ra tại nhiều địa điểm khác nhau ở miền núi Ngự sông Hương.

Vào năm 1993, tại Hà Nội, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia đã tổ chức một cuộc Hội thảo Quốc tế với chủ đề “Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại”. Hội thảo đã giải quyết những vấn đề thuộc mối liên quan giữa xưa và nay,cũ và mới theo biện chứng của lịch sử, xuất phát từ việc xem xét sự vận động, chuyển hoá và thích nghi của các lễ hội. Những sinh hoạt văn hoá ấy cần được tổ chức để đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn và giao lưu văn hoá bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu của đời sống tâm linh.

Ngày nay, Cố đô Huế, với những giá trị toàn cầu nổi bật của nó đã trở thành một trung tâm văn hoá và du lịch quốc gia và quốc tế, và đang dần dần được khẳng định là “Thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam”. Chứa đựng trong lòng mình một kho tàng to lớn những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, Huế hoàn toàn có khả năng chọn lựa để tái hiện những lễ hội cung đình đặc sắc, hoành tráng và thích hợp nhất nhằm phục vụ cho nhu cầu văn hoá và du lịch của thời đại.
Theo thiển ý, với Quần thể Di tích vàng son cổ kính giữa bối cảnh thiên nhiên êm đềm thơ mộng mà Huế may mắn còn bảo tồn được, chúng ta có thể phục hồi dần các lễ hội cung đình mang giá trị cao về lich sử, văn hoá và nghệ thuật truyền thống, chẳng hạn như:
- Lễ Truyền lô của một khoa thi Hội, thi Đình ở Ngọ Môn(niêm yết bảng vàng ở Phu Văn Lâu, các vị Tiến sĩ được vua ban yến và cỡi ngựa xem hoa ở vườn Thượng uyển, và được vinh quy bái tổ).

- Lễ Đăng quang hoặc Lễ Nguyên đán ở Điện Thái Hoà.
- Lễ Thánh thọ của Hoàng Thái hậu Từ Dũ ở Điện Thái Hoà và Cung Diên Thọ.
- Lễ tế Trời Đất ở Đàn Nam Giao.
- Lễ Tứ tuần hoặc Ngũ tuần Đại khánh của một ông vua.
- Lễ “Hạ giá” (đám cưới) của một bà công chúa.
- Lễ vua đi Du Xuân.
- Lễ Thanh minh của vua và hoàng gia ở các lăng tẩm (Đoàn Ngự đạo đi bằng thuyền rồng trên sông Hương).

Lễ hội cung đình Huế đang trở thành một di sản văn hoá tinh thần và là một sản phẩm du lịch cao cấp nhất; là phần hồn sẽ làm sống động và nâng cáo giá trị hơn cho các di tích kiến trúc mà chúng ta còn gìn giữ được. Nếu chúng ta không phục hồi ngay từ bây giờ, thì e sẽ muộn màng. Mấu chốt của vấn đề được đặt ra hiện nay là việc tổ chức thực hiện của các nhà quản lý văn hoá và hoạch định du lịch tại địa phương.

                      P.T.A
(167/01-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BASau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở qui mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.

  • NGUYỄN HỮU THÔNG     (Dẫn liệu từ miền Trung Việt Nam)I. Có lẽ khi những đoàn lưu dân Việt từ đất Bắc trong quá trình mở cõi về Nam, họ buộc phải có những thích ứng khá táo bạo khi tiếp cận với một vùng địa sinh thái mới lạ, cùng với nền văn hóa của cư dân bản địa tiền trú, ít chất tương đồng, cho dù, tất cả đều chịu sự chi phối của không gian đặc thù Đông Nam Á.

  • NGUYỄN HỮU NHÀNXa xưa tục ném còn có ở nhiều nơi trong nước. Ở đất bản bộ của Vua Hùng cũng có nhiều làng, nhất là ở vùng Mường không mấy làng không tổ chức ném còn trong dịp hội xuân và hội làng.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Trong nghi lễ vòng đời người của người Tà Ôi, lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất và được phản ánh qua những điều cấm kị, kiêng cữ mà mỗi đôi trai gái, gia đình hai bên, những người tham gia đám cưới phải thực hiện.

  • TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.

  • TRẦN HOÀNG Cách đây gần 450 năm, khi đề cập tới phong tục và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, tiến sĩ Dương Văn An đã viết: “Xuân sang thì mở hội đua trải, gái lịch, trai thanh. Hè đến thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi ca, chốn múa…” (1).

  • LAN PHƯƠNGHuyện Phong Thổ (còn có tên gọi Mường Tso, Chiềng Sa) tỉnh Lai Châu nằm trong vùng núi rừng hùng vĩ với mạng lưới sông suối dày đặc và những thung lũng lòng chảo màu mỡ. Nơi đây tụ hội nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Thái, Dao, H'Mông. Hà Nhì, Giáy... trong đó người Thái (Tay đón, hay Táy Khao) chiếm vai trò chủ thể, cư trú lâu đời  với thiết chế bản mường chặt chẽ.

  • TRẦN HOÀNGCho đến nay cũng chưa ai biết rõ tín ngưỡng thờ cá voi ở các làng chài ven bờ biển Bình Trị Thiên xuất hiện từ bao giờ. Song việc cá voi dạt vào vùng bờ biển này thì đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm.

  • LÊ ANH TUẤNCứ vào độ cuối tháng 11 Âm lịch trở đi thì không khí Tết dường như đã dần dần hiện diện trong cái tiết trời, cây cỏ và trong sinh hoạt thường nhật của người Huế.

  • TRẦN VŨTrâu là loài động vật thích nghi với hệ sinh thái đầm lầy, ấm, ẩm thuộc khu vực Đông Nam Á. Nó là một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”...

  • NGUYỄN THỊ SỬUKhông dịp nào bằng lễ Aya (lễ cúng mùa, tết), trên mỗi nóc nhà người Taôi bốc lên nghi ngút thơm lừng hương vị cơm mới hoà quyện với bao món ăn đặc sản bay đi khắp núi rừng.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTrong kỷ niệm về thời thơ ấu của mỗi người ở Huế, thế nào cũng có những kỷ niệm về coi bói ngày Tết, nghĩa là có pha một chút mê tín dị đoan. Bởi vì suy cho cùng, đặc trưng của tinh thần Huế đâu có xa lạ gì với chuyện mê tín dị đoan. Người Huế nhìn vào đâu cũng thấy ngũ hành, vì vậy, thói kiêng cữ hoạc sùng bái lại càng là một thứ đặc sản Huế ở nơi họ.

  • NGUYỄN THỊ NGUYÊN HƯƠNGTết là một sự kiện đặc biệt trong đời sống của người Việt . Tục lệ về Tết cũng là chuyện “đất lề quê thói”, mỗi nơi có một cách riêng để đón Tết dù Tết mọi nơi cũng tương tự như nhau. Riêng với Huế, tục lệ đón Tết cũng mang những nét đặc trưng của vùng đất từng là kinh kỳ.

  • NGUYỄN KHẮC XƯƠNGTết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc. Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.

  • LÂM TÔ LỘCTrong di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam, múa dân tộc Việt có bề dày lịch sử được xác định bởi những hoa văn hình múa trên trống đồng Ngọc Lũ. Múa truyền thống nổi lên ở các lễ hội. Có người cho rằng người Việt không có thói quen sinh hoạt múa tập thể. Sử sách đã nói đến truyền thống sinh hoạt múa này.

  • TRẦN HOÀNGThành ngữ Việt có câu: "Vui như tết". Quả là như vậy! Tết vui không phải chỉ vì Tết là dịp để sum họp gia đình, gia tộc, để chú, bác, cậu, dì, bà con nội ngoại và xóm giềng tề tựu, gặp gỡ, thăm viếng nhau dưới một mái đình, mái nhà chung.