TỐNG PHÚ SA
Bây giờ lão nằm đó, thiêm thiếp trên tấm phản bằng bìa của những cây xoan mà lão tự đóng bằng chiếc dao cùn gỉ. Tấm thân gầy trơ xương dán bẹp xuống manh chiếu cói đã rách bươm.
Minh họa: HIỀN LÊ
Gió đầu mùa thông thốc, trượt từ dãy núi Mồng Gà, hun hút luồn qua ô cửa bé như bàn tay, lơ thơ những sợi dây xanh đỏ rồi len vào trong tấm chăn chiên cũ nát. Hơi thở của lão nặng nhọc, hai rãnh xương sườn như hai mảnh xương rái cá. Mỗi khi hơi lạnh chuồi vào đôi bàn chân chỉ còn da, hơi lạnh theo mép chăn chuồi lên hai mảnh xương rái cá, từ cổ họng lão phát ra những âm thanh phì phọt.
Bây giờ lão nằm đó, không có lấy một người thân thích bên cạnh. Kẻ qua người lại, thương tình mang cho lão bát cháo hoa hay ngụm nước chát. Lão không thấy đói nhưng thèm ngơ ngẩn ngụm nước chè xanh đặc dính miệng. Nhấp nó vào, cả người lão như nóng lên, hai mảnh xương cá nhấp nhô, phập phồng. Những giọt nước xanh ngăn ngắt, thơm cái vị đặc trưng của vùng đất Tiến Sơn. Những giọt nước nhấp vào thấy chát, nhưng chảy xuống cổ họng nghe ngọt lừ. Cả đời đi chân đất đến nẻ gót, móng chân quắp lại cứng ngắc như mồng con ngan thiến đen, cả đời lão luôn vỗ ngực, tự cho là mình khôn ăn đứt già trẻ của cả làng Mỹ Hòa. Lão đã vận cái triết lý giản đơn, triết lý mà lão nghĩ không thể nào sai được vào cuộc mưu sinh đầy nhọc nhằn của gia đình lão trên vùng đất ba đời đã nghèo xác xơ. Mỗi sáng, nâng ngang miệng bát nước chè chát bốc khói, thơm cái vị thơm đầy ma mị, lão tin rằng cuộc đời của một thằng như lão đắng rồi sẽ ngọt. Đến tận khi hơi thở chỉ còn nóng ở phần cổ, khi hai rãnh xương sườn như hai mảnh xương rái cá dính sát vào manh chiếu sờn rách, khi thìa cháo, ngụm canh lão phải ăn chực nằm chờ những người tốt bụng đi qua về lại, lão vẫn tin và chờ đợi để được nhấp, dẫu chỉ một lần cái vị ngọt mà cả đời lão chưa được hưởng.
*
Cả nhà chín người có già, có trẻ dắt díu nhau về đồng đất Bãi Côi, cắm cọc trên dải đất bồi của mạn trái sông Phố Giang để làm nơi che mưa nắng. Năm ấy, Kình ba mươi tư tuổi, vâm váp, rắn đanh và khỏe như một con trâu rừng. Gia đình của Kình đã bao đời lênh đênh sông nước, lấy thuyền làm nhà. Đến đời của Kình, dòng sông không đủ cá tôm, việc mưu sinh trăm khó, ngàn khó. Nhìn đám trẻ ngơ ngác đến đáng thương mỗi lần vào thị trấn, Kình đau đáu ý định bỏ sông để lên bờ.
Một cái lễ nhỏ cúng Hà Bá được bày ra trên mui thuyền, thầy cúng áo thụng đen, tóc vấn chẻ đuôi ngồi xếp bằng trên manh chiếu. Già trẻ nhà Kình lựa chỗ, ngồi chắp tay quay mặt về hướng sông, miệng mấp máy theo thầy. Hai bàn tay trơn láng của thầy gõ đều đều lên mặt trống: “Nam mô cung thỉnh: Quan đương niên hành khiển Triệu Vương chí đức tôn thần. Nam mô cung thỉnh: Các ngài Ngũ Phương, ngũ thổ, long mạch…”. Giọng thầy uy nghi vang rện mặt sông, cả nhà Kình cúi rạp theo hiệu lệnh của thầy. Một nồi cháo loãng được đặt trước mui thuyền, cứ ba nhịp trống, người nhà Kình lại múc một môi cháo rải xuống sông. Khi nồi cháo cạn, cũng là khi con thuyền của họ dừng lại chân vực Nầm, là nơi sâu nhất của dòng sông Ngàn Phố.
Gia đình Kình lên bờ, dắt díu nhau trọ nhờ một cụ bà không chồng, không con. Đêm ấy, ba người đàn ông lực lưỡng, vâm váp trong nhà là Kình, con trai lớn và ông của họ lầm lũi quay lại chân vực Nầm. Ba bóng đen câm nín, dầm người trong nước sông, môi cắn chặt trước phút giây được xem như là sinh tử. Kình lặn thật sâu xuống vực Nầm, tìm cách để neo chặt con thuyền khi nó được dìm xuống. Kình nghe môi mình mặn chát, ngực nhói đau. Con thuyền được lật nghiêng, từ từ uống no nước, chìm dần, chìm dần.
Họ, ba người lầm lũi ngược con đường mòn dọc bờ sông sau khi đã khuân đầy những viên đá thanh sắc nhọn xếp quanh con thuyền. Kẻ trai quen sông nước, giờ bàn chân nhẹ tênh tênh khiến Kình đau thon thót. Nỗi đau ấy nhói buốt nơi đỉnh đầu rồi run rẩy lan xuống mười đầu ngón tay. Nỗi đau nhắc Kình nhớ, cả gia đình chín người họ giờ là kẻ tha hương.
*
Bãi sông bồi mạn ngược dòng Phố Giang không bao dung nổi gia đình Kình. Mùa lũ năm ấy, nước thượng nguồn dâng nhanh, cuốn theo tất cả những vật dụng còn sót lại và đứa con trai út của vợ chồng Kình. Bàn chân đi trên đất mà nặng hơn lực cản của dòng nước xoáy. Đã nhiều lần Kình muốn vớt con thuyền lên, muốn lênh đênh trôi dạt, để ít ra, gia đình Kình còn đầy đủ chín mạng người. Nhưng rồi Kình lại cố nuốt nước mắt, chôn vội vàng thằng con trai tám tuổi trên đồng đất Bãi Côi, để rồi cả nhà lại lần đường tìm sự sống.
Ngọn đồi hoang vu thưa thớt người ở, rìu rạ xấn xuống nẩy lên như chạm phải bê tông cốt sắt là nơi gia đình Kình trụ lại. Ba đời nhà Kình là dân vạn chài, không mấy khi được đặt chân lên đất. Giờ, một vùng hoang vu, chỗ nào cũng bạc xóa màu đất. Già trẻ lớn bé nhà Kình quăng mình giữa cái nắng chang chang, lấy thanh sắt vót nhọn nẩy từng hòn đá. Đá được dồn thành đống, đá cao bao nhiêu thì màu xanh được phủ lên bấy nhiêu. Những hom sắn được trồng thành dãy, sắn thu hoạch xắt nhỏ rải trên nền đất sét, phơi hai nắng thì thơm lừng, giòn rụm. Sắn được bỏ vào cối đá thanh, một người dẫm lên cần cối, một người lấy đuôi của mo cau vun sắn thành ngọn. Tiếng chày thình thịch nghe tươi vui, rộn rã, nghe no ấm đủ đầy. Mùa đông, khi những cơn gió heo hãi trườn từ bên kia rú Vạc, thông thốc thổi từ dòng sông Phố Giang về, cả nhà người của Kình vây quanh chiếc bếp đỏ lừ được đốt bằng gốc trện già, xuýt xoa trên tay chiếc bánh sắn chưng với mật. Mùi vị béo ngậy, thơm phức của sắn quyện với vị ngọt lừ của mật mía, mùi vị chưa ăn đã thấy nưng nức.
Xóm nhỏ dưới chân rú Vạc giờ đông đúc hơn những ngày gia đình Kình dừng chân lập nghiệp. Xóm nhỏ ấy đã có những mái ngói đỏ au, những cột ăng ten vút cao giữa bầu trời xanh ngăn ngắt. Gia đình Kình chín người còn sáu, bố mẹ và thằng con chết trong trận lụt năm nào đã nằm lại một góc nhỏ dưới chân rú Vạc. Thời gian nghiệt ngã cùng cuộc sống khốn khó biến Kình từ một chàng trai vâm váp, rắn đanh trở thành người đàn ông già nua, khắc khổ. Người ta gọi Kình bằng lão, một lão Kình với chằng chịt những vết nhăn chạy thành rãnh trên khuôn mặt đen sạm vì nắng gió. Một lão Kình chỉ biết khum khum hai bàn tay mắn chuối, nhặt nhạnh từng hào, từng cắc để cất trữ. Nghe đâu, lão đã mua được cả khâu vàng chín con chín, nghe đâu lão tằn tiện kham khổ để mua những khâu, những chỉ cất vào lọ sành chôn đầu giường.
Không biết những chuyện nghe đâu ấy đúng được bao nhiêu phần trăm, nhưng một điều không thể sai được là, lão Kình rất giỏi nắm bắt “thời cuộc” để kiếm tiền. Cái làng bé như lỗ mũi với dăm chục nóc nhà dưới chân rú Vạc, ấy vậy mà lão đã kiếm được bộn tiền.
Đầu tiên là chuyện chiếc điện thoại kéo dây, để bàn. Ngày ấy, cả một dãy vòng quanh, xanh ngắt dưới chân rú Vạc chưa có một gia đình nào có điện thoại. Người dân rú Vạc phải đi mất nửa ngày đường để lên tận trung tâm huyện mới có thể nói chuyện bằng dây. Những chiều mưa dầm không đồng áng, cuốc cày, lão Kình thường lê la các quán cóc, đầu đường cuối chợ. Thiên hạ bắn thuốc lào lão xin tý xái, lão vê một bi thuốc rõ to, nhồi vào nỏ điếu rồi ngửa cổ chếch bốn mươi lăm độ rồi rít. Lão ghì điếu, mơ màng phì nhẹ bi thuốc vừa cháy một nửa ra thật xa. Mỗi chiều, nếu lão bắn được bốn bi thì ngày hôm sau lão có đủ thuốc để hút. Sau khi khách vãn, lão kín đáo nhặt các xái thuốc cho vào bao, kín đáo cất sâu vào túi, để mỗi ngày lão có thể lặp lại cái hành động khốn khổ của mình. Trong những chiều ngồi một góc, lặng lẽ chờ dịp để xin bắn một bi thuốc lào, lão cóp nhặt được trăm ngàn những câu chuyện, mà với lão, câu chuyện nào cũng có những giá trị kinh tế riêng. Tỷ dụ như chiều nay, lão nghe lỏm được câu chuyện về cái máy có dây trên thị trấn. Cả cái vùng trồng sắn ngô bạt ngàn dưới chân rú Vạc, gà dê thả ăn trụi cỏ cả một triền núi mà không có nổi một cái máy có dây? Bao đêm thức trắng, lão quyết định dốc hết vốn liếng tích cóp được lắp một cái máy có dây làm dịch vụ. Dây máy lắp xong, lão lấy bao xi măng lộn trái, ghi nắn nót số điện thoại, thời gian, giá cả rồi treo lên khắp đường làng, ngõ xóm. Nhưng, lão vẫn chưa yên tâm. Trên chuyến xe bò trưa ấy, lão kêu mấy đứa trẻ con, tay trống, tay chảo gõ inh ỏi: “Loa loa loa, hiện nay máy có dây gọi ngàn km, chất lượng đảm bảo, âm thanh tròn vìn đã có mặt tại tư gia nhà Kình. Nghe hai ngàn một lượt, gọi tính giây tính phút, tùy khoảng cách xa gần… loa loa loa”. Trẻ con được ngồi xe bò, thích chí gào khản cả cổ. Lão Kình chỉ việc quất roi vào mông bò, gà gật ngủ.
Chiếc máy có dây đưa về cho Kình một số lượng tiền lời không phải ít. Nhưng, lão vẫn nhận thấy có cái gì đó không ổn. Khi khách gọi, vợ lão nhiều khi phải bỏ dở bận cơm. Có những cuộc vào lúc nửa đêm, lão phải lọ mọ, chân thấp chân cao. Ngày nắng còn đỡ, những ngày mưa rét, lão thấy lấy của khách hai ngàn tiền nghe, không bõ. Ấy thế là, lão lại lê la quán trà, lê la xin bi thuốc lào bắn thử, lê la cóp nhặt để rồi nẩy ra ý tưởng lắp một loa phóng thanh lên cây gạo cao nhất giữa xóm. Mỗi lần có khách, lão chỉ việc rung đùi, dí hơi thở sặc mùi thuốc lào vào mic: “Alo, alo… mời ông, bà… về tại phòng máy nhà Kình Phê để nghe điện. Khi đi, nhớ mang theo hai ngàn”. Kình Phê là biệt danh tự lão đặt cho mình. Mỗi lần ngồi quán cóc chém gió, lão tự vỗ ngực cho rằng cuộc đời lão phê nhất là bỏ nước lên bờ nhưng vẫn kiếm được bát cơm độn sắn. Và, lão cũng tâm đắc lắm lắm cái phê của hương vị thuốc lào, say tít tít tịt tận kẽ răng. Lão nói, bi thuốc lào mà lão rít bao giờ cũng lưng lửng nơi cuống họng, rồi loang dần đến tận các tế bào thần kinh trong cơ thể. Những người nghe lão nói chỉ cười khì, có người ghét cái thói kẹt xỉ của lão, cố tình dẫm lên những bi thuốc mà lão đã cố tình bắn ra xa.
Mỗi năm, gia đình lão làm ăn lại càng khấm khá hơn. Người trong làng vay trước giật sau nhưng lão có tiền để mua vàng cất. Có tiền, vậy mà lão vẫn để vợ con làm việc không có giờ nghỉ, ăn uống kham khổ như ngày đầu họ mới đến lập nghiệp. Căn nhà tranh dựng tạm bằng thân cây bạch đàn bao năm vẫn thế. Lão nhất quyết không bỏ tiền để làm nhà, lão cho đó là sự xa xỉ không cần thiết.
Có một bận, lão lên phố huyện mua đôi lợn giống về nuôi. Đi đến đâu, lão cũng chỏng đôi tai dài như tai thỏ để nghe người ta đang bàn tán những gì. Trưa ấy, mua được đôi lợn giống vừa rẻ, vừa có tướng, lão tự thưởng cho mình ba bát bánh đúc nóng hổi. Lão ngồi xổm trên nền xi măng, mắt hau háu nhìn bát bánh đúc đỏ thẫm, bốc khói nghi ngút từ chiếc mủng đã ngả màu xỉn đen. Hai viên bánh đậu vàng mơ được thả vào bát nước mắm có ớt xanh thái lát mỏng. Lão bẻ đôi chiếc bánh, quệt thật sâu vào bát nước chấm thơm lừng rồi đút tỏm vào miệng, nhai ngấu nghiến.
Đang hít hà cái vị nồng cay của ớt xanh, béo ngậy của viên đậu quyện với bánh đúc đỏ, lão nghe loáng thoáng tiếng the thé của mụ béo bán lợn quay:
- Tao là tao mê cái cô Marianna đến chết đi sống lại. Người đâu mà đẹp đến thế không biết. Mắt thì sắc hơn dao, tóc màu đồng biếc. Đã thế lại tốt nết, chứ đâu như lắm kẻ, đã xấu lại…
Mụ nguýt ngang nguýt ngửa. Âm thanh đủ để cho Kình biết, cái cô nàng có tên là Anna gì đấy đang rất chi là hót. Lão lân la lại gần, hào phóng bỏ tiền ra mua những miếng thịt vụn, bạc nhạc và xương xẩu để bắt chuyện. Lão chém:
- Cái cô Anna ấy đẹp thì đẹp thật, nhưng đ… ếch có bằng cô bán thịt quay của chợ Trùa quê mình bà chủ nhỉ!
Được khen, mụ béo cười tít mắt. Rồi, mụ ghé vào tai lão:
- Lão thì biết cái đếch gì! Này nhá, cô ấy là Marianna, nữ chính trong phim “Người giàu cũng khóc” đấy.
Lão à lên một tiếng khẽ, lui cui nhặt túi nilon đựng thịt quay rồi xách hai con lợn giống về nhà. Hóa ra, dân kẻ Vạc nhà lão như ếch ngồi đáy giếng. Sáng hôm sau, lão lại lân la ra quán cóc đầu làng, đưa câu chuyện của mụ béo trên phố huyện ra để chém gió. Mặt ai nấy đều nghển ra như đít vịt giời. Lão quyết định đầu tư hẳn một chiếc tivi đen trắng. Cần ăngten ngạo nghễ vươn lên trên những túp nhà lúp xúp. Lão mãn nguyện vì đã có công khai sáng văn minh cho cái làng hơn một trăm hộ dân dưới chân rú Vạc. Một tuần đầu công chiếu, lão nấu nước chè chát chiêu đãi cả làng. Chưa đến giờ bông hoa nhỏ, nhưng già trẻ lớn bé đều ngồi chồm hổm trước sân gạch nhà lão để chờ. Nhìn lượng người kìn kìn kéo đến, cả các vùng lân cận cũng kéo đến, lão như mở cờ trong bụng. Lão chắc mẩm, vụ này lão sẽ được một mớ kha khá.
Cứ năm giờ chiều hàng ngày, loa phát thanh nhà lão lại ông ổng. Lão tóm tắt lại những tình tiết của bộ phim nhiều tập “Người giàu cũng khóc”, lão dự đoán tình huống gay cấn của tập tối nay. Lão thu người lớn mỗi người hai ngàn, trẻ em miễn vé.
Đâu được hai tuần như thế, lão nghe ruột mình nổ đôm đốp. Ôi cha mẹ ơi, trẻ con đâu mà ra nhiều thế, mỗi ngày một đông. Lão xót của, đứng ngồi không yên. Nhưng, bây giờ mà thu tiền thì bọn chúng lấy đâu ra? Ấy thế rồi lão cũng nghĩ ra một cách. Buổi tối hôm đó, lão rỉ tai dặn nhỏ từng đứa, bảo chúng mày khôn hồn thì đừng mách lẻo. Tối hôm sau, khi chương trình phim truyện kết thúc, dân làng lục tục kéo nhau ra về, lão sướng rơn khi nhìn thấy trên mặt sân nhà lão, cơ man nào là những viên gạch bốn lỗ. Bọn trẻ con xem phim, mỗi đứa mang theo hai viên gạch để ngồi. Gạch được chúng lấy từ những công trình bỏ phí, từ những ngôi nhà hoang. Lão Kình đắc chí vì nghĩ ra được một cách hay để thu tiền bọn nhỏ. Trong vòng một năm, gạch trong vườn nhà lão đã chất cao hàng đống. Số gạch đó được lão quy thành bao nhiêu tiền của, lão chôn dưới chân cột nơi góc nhà.
*
Bây giờ lão nằm đó, không có lấy một người thân thích bên cạnh. Vợ lão mất do bị cảm hàn biến chứng. Lần ấy, nếu lão không tiếc ba thang thuốc gia truyền của bà chắt Vắn đầu thôn thì vợ lão không bỏ lão mà đi. Đã mấy lần lão moi cái hũ đựng vàng lên, mấy lần chậc lưỡi định chạy ù lên phố huyện bán để thuốc thang cho vợ. Nhưng rồi, lão lại đặt xuống. Lão tự nói cho mình nghe, rằng, mụ vợ lão khỏe như vâm, bao nhiêu năm bên cạnh lão, có đau ốm gì đâu mà thuốc với thang cho tốn kém. Vợ lão mất, cha con lão tự khâm liệm và chôn ở nghĩa địa sau nhà. Một ngôi mộ đất sơ sài giữa um tùm mua móc. Những đứa con lão lớn lên, chỉ biết quanh quẩn nơi hom sắn, luống khoai. Rồi, chúng cũng lần lượt bỏ lão mà đi. Rất ít khi chúng trở về thăm lão, tám phương chín hướng chúng đi, lão không thể nào hình dung được.
Bây giờ lão nằm đó, hơi thở nặng nhọc phát ra từ cuống họng sâu hoắm. Xung quanh lão, hàng dài người xếp hàng về đưa lão đi. Lão nhìn thấy vợ lão tóc bạc phơ, ăn mặc rách rưới đứng từ xa giơ tay vẫy lão. Cha mẹ lão nước mắt lưng tròng, đứng hai đầu giường, nói với lão một từ buông.
Chiều ấy, khi những đợt gió mùa thốc tháo trườn từ sông Ngàn Phố, hun hút thổi dưới chân rú Vạc, thần chết nhấc lão đặt lên một chiếc xe màu đen tuyền. Xe tiến vào Quỷ Môn quan trong tiếng gào khóc xé trời của lão. Trước mắt lão là hộp gỗ màu đen, là tài sản mà lão đã đổi bằng mồ hôi cả gia đình chín người nhà lão.
Tiếng gào khóc của lão rơi bẫng trên con đường Hoàng Tuyền mọc đầy hoa Bỉ Ngạn!
29/10/2022
T.P.S
(TCSH47SDB/12-2022)
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.
PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.
NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H
TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…
NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.