NGÔ MINH
Có một ngày nhạt miệng, thèm đi. Đi mãi mới hay phố cũng thiếu người. Có một ngày nằm dài nghe hát. Rồi ngủ quên trong nỗi buồn nhớ mông lung.
Và có một ngày ngẫu hứng đọc lại "Ngẫu hứng về chiều"(1) và thấy hợp với mình như một tri âm. Thằng bạn nhiếp ảnh chuyên làm thơ yêu của mình ở góc hồ phố Cộn nó cũng bảo thế. Ba năm nay sao không thấy ai bàn một lời nào tử tế về tập thơ? Các "nhà phê bình" bắt đầu sợ chuyện đưa thơ ra mổ xẻ rồi ư? Được thế thật là diễm phúc! Có ai đọc câu thơ xong lại hỏi: "Câu này ý nói gì" hay "Nói như thế có ý đồ gì" (!?) Có "nhà phê bình" cứ khăng khăng chiếc áo này chật quá và màu chói quá, mà không chịu biết nó chỉ may cho một người...
* * *
Ấy là sự bất thường của thơ và người thơ. Hoa nhụy có thì. Đôi lứa có thì. Còn thơ và người thơ? Từ đây, năm ba mươi tuổi mới "ngẫu hứng" thơ. Cái thích đầu tiên? Hãy tìm. Con người tha hương trở về nhặt lại điều gì đó của chính mình trong bóng lá rớt vô tình bên sông sương. Tìm lại gương mặt mình trong mắt đò đêm đăm đắm. Tìm lại tuổi mình trong đá Tịnh Tâm... Ba mươi năm Hồng Nhu hăm hở bươn bả đi theo một cái có để mà không,
Tôi không có gì để mà buồn
Khi chẳng biết niềm vui ra sao nữa.
Rồi tới ngày bạc tóc trở về anh bỗng như không mà có, mà hiện hữu:
Bây giờ tôi hoàn toàn thanh thản
Té ra mình đích thực vẫn mình đây...
Thì ra cái mất cũng là cái "mình" mà lại cái tìm lại được cũng chỉ giản dị là “mình" thôi! Ba mươi năm cuộc hành trình thật đắt giá. Bao nhiêu người may mắn như anh tìm lại được chính mình?
* * *
Tại sao phải đợi tới năm 1986, về Huế, Hồng Nhu mới tìm ra cái “tôi thi sĩ" là mình? Cái "sợi chỉ" của vòng cườm "Ngẫu hứng về chiều" là gì? Tình yêu? Hẳn là thế. Trước cố hương ai không thành con trẻ!
Tạ Đình ngày xưa nơi đâu
Để Cô đơn Bồng lai Đảo
Nói gì tít tắp doanh châu
Mỏi cánh chim trời đau đáu.
Tìm nữa xem? Thấp thoáng một bóng hồng, một "em" gì đó để mà "trút nỗi đau buồn"; Cách nói khác: Có một quyến rũ, đam mê, phấp phỏng... để có thể tạo nên những chấn động lạ, những bất thường không nếp hành chính nào bảo ban được. Sự bất thường sinh ra năng lượng thơ đủ cho dạt dào và mới mẻ. Chợt buồn thương cho những người làm thơ công chức, "nhà thơ nhà nước", luôn lo sợ cái bất thường phương hại đến phẩm hạnh, chức quyền. Xin nhẩm lại:
Áo em là lá bùa yêu
Cầm chân tôi lại mái chèo quay ngang.
* * *
Một quê nhà. Một người yêu. Nghĩa là thơ có địa chỉ để gửi, để tới, để hồi âm. Nhưng với Hồng Nhu hình như "Ngẫu hứng về chiều là tiếng nói mới chưa từng có trong sáng tác của anh trước đó. Đó là sự dũng cảm dấn thân trong cuộc hành trình đầy cam go đi tìm thân phận con người, được công cuộc đổi mới" phát động và sự cởi mở đáng quý của không khí văn nghệ ở quê nhà, cổ võ. Nhờ chữ "Thời" ấy mà hai chữ "Tự do" lại được viết hoa. Tất cả cái "Thiên thời địa lợi nhân hòa" ấy cộng với vốn sống dồn nén ba mươi năm đã tạo được một Hồng Nhu thơ chân thành, xót xa mà quyến rũ. Đã thấp thoáng một giọng điệu, một lối thơ tài hoa, tài tử?
Thật công bằng thì "Ngẫu hứng về chiều" chỉ mới là mùa thu quả đầu, là sự hướng tới một giọng điệu mà bạn đọc mong mỏi. Đáng tiếc là ba mươi năm nay, sau khi "Ngẫu hứng về chiều" ra đời, Hồng Nhu cũng có làm nhiều thơ - nhưng cái chất "ngẫu hứng" đã dăm ba phần mất mát. Không chỉ tôi mà nhiều bạn bè nhận xét như thế. Lý do? Lại vẫn những vấn đề muôn thuở của thơ.
Ôi, nếu như còn hình bóng để tương tư! Nếu như "thời" không lại "thế"! Ngẫm lại, cái "tình trường" ấy có thể gọi là bà đỡ của thơ: Có nó mới da diết hơn, đam mê hơn, tỏa sáng hơn. Điều đó đúng không chỉ với thơ tình mà cả thơ viết về các "chủ đề xã hội" nếu được sinh ra từ một trái tim đang yêu cũng chứa chan sự đồng cảm. Nếu không có cái thứ "trường sinh học" ấy, thơ chỉ còn là một cách nói, một cách luận bàn của lý trí thuần túy. Bởi thế mà ta càng quí biết bao cái bất thường, ngẫu hứng trong "Ngẫu hứng về chiều". Gọi là bất thường chứ thực ra nhà thơ sống đúng như mình, hành động đúng như mình, ngay cả cách hôn người yêu!
Nếu như được hôn em hai cái
Tôi không hôn như thói tục người thường
Một cái nhẹ vào dấu nằm em ngủ
Còn cái kia tôi đợi lúc em buồn...
* * *
Trực cảm thơ có nhiều dạng bậc lắm: Linh cảm, chiêm cảm, hoài cảm... Linh cảm là thứ ma nhập. Đó là thơ của những thiên tài có thể thấy trước cuộc sống hàng thế kỷ. X. Exenhin viết trước về cái chết và đám ma của mình. Nhiều nhà thơ khác đã không thoát khỏi số kiếp được báo trước trong các bài thơ, câu thơ của mình, như là sự tiền định. Thấp hơn linh cảm một bậc là chiêm cảm - tức là sự chiêm nghiệm lẽ đời (thế thái nhân tình) qua những hình tượng thơ. Nhiều nhà thơ đã chiêm nghiệm rất tinh tế, sâu sắc và đã trở nên nổi tiếng. "Ngẫu hứng về chiều" của Hồng Nhu có nhiều yếu tố chiêm nghiệm. Chiêm nghiệm thơ có thể ví như những tia lửa, vụn lửa bắn ra từ cái bàn mài đang quay khi thỏi sắt chạm vào. Đó là sự va chạm giữa thái độ sống, sự bức xúc mãnh liệt với vốn sống và cuộc sống thực tại. Từ đó bật ra sự tổng kết, sự lắng đọng, lật lại "Ngẫu hứng về chiều", ta hãy đọc:
Mực ơi mực làm bằng gì
mà nhỏ hoài như máu rịn.
Hãy ngẫm: "Gió mồ côi là ngọn gió nguyên màu”,
hay "Đôi khi tôi gọi cái đến rồi là phấp phỏng” vv...
Tuổi thọ của thơ một phần tối quan trọng nhờ vào cái sâu xa, sắc sảo của chiêm nghiệm.
Có một lần tôi nằm nghêu ngao đôi đoạn "du ca" của Trịnh Công Sơn - "trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra" - Bỗng giật mình ớn lạnh bởi cái hoang vu giữa cõi đời, cõi người được chiêm nghiệm...
Lại muốn nói thêm về chiêm nghiệm. Hồng Nhu có in hai bài thơ có đầu đề "Chiêm nghiệm 3" và "Chiêm nghiệm 2" trong tập thơ của mình. Hẳn là có "Chiêm nghiệm 1" nữa. Cả hai bài chiêm nghiệm được in đều là những bài thơ xúc động. Mới hay chỉ có cái tôi mới có sự chiêm nghiệm nghiêm chỉnh. Cái tôi càng bản lĩnh, tài hoa, bản chất cuộc sống càng hiện lên sắc nét qua sự chiêm nghiệm, mặc dù hình ảnh thơ rất chấm phá:
Tôi lặng lẽ đem tháng ngày ra đốt
Nghe cô đơn cay đắng cả tim đèn.
* * *
Thật ra, tấm lòng mới là cái còn lại. "Sống trong đời sống cần có một tấm lòng" (Trịnh Công Sơn). Tấm lòng là thỏi nam châm cho cái riêng tư tâm trạng biến thành cái chung đồng cảm. Cũng có những người "thông minh như dao sắc" (chữ của Nguyễn Trọng Tạo) trong thơ, nhưng sự thông minh ấy không khỏa lấp được khoảng trống của sự ghẻ lạnh thờ ơ cuộc sống. Cũng có những người chuyên chú vào việc dùng chữ nghĩa thơ phú để cầu danh, để tiến thân, để vụ lợi. Những tấm lòng như thế làm sao biết chiêm nghiệm, biết sám hối, cũng không bao giờ biết tự giễu mình. "Ngẫu hứng về chiều" mang lại cho tôi một sự an tâm, tin tưởng và thông cảm. Khi Hồng Nhu tự cho mình là người "Không tên mà có tuổi", là "dại khờ, thờ ơ,... ngốc nghếch", "Nhiều năm rồi tôi mải mê săn đuổi Chính thân tôi nhưng chẳng bắt được mồi" hay "Tôi đã yêu quá nhiều điều đáng ghét - Nên mặc nhiên nghi hoặc chính mình luôn" vv... thì ta tin rằng đó là sự sám hối của cõi lòng. Ngay cả cái việc khó nói với vợ, rằng mình đã hai thứ tóc trên đầu còn bị trúng mũi tên của thần ái tình - anh vẫn không giấu diếm bày tỏ:
Anh không là con sóc
Nàng không phải người săn
Nhưng anh vẫn trúng tim
Vì mũi tên nàng bật.
Đó là thái độ sống chân thành, đáng kính.
Có lẽ cũng do câu chuyện như thật về "người đi săn, và vợ chồng chú sóc" ấy mà cả tập thơ cứ toát lên một điều gì đó kín mà mở, như là sự day dứt của hoàn cảnh, một hạnh phúc đắng cay, một niềm vui ngậm ngùi rất thật, rất ảo:
Người không gặp ơi người không gặp
Tôi thắt lòng vì chẳng gặp người đây
Nhưng nếu gặp chắc gì tôi được gặp
Một cô đơn với một lẻ đơn này...(2)
* * *
Có một ngày mình muốn sống. Có một ngày muốn đi nhặt nhạnh trong cõi trời đất một cái gì cho sự thiếu đói của mình. Xin đừng chê bai, căn vặn. Cái gì mình cần thì hãy nhặt lên. Và trước khi tiêu hóa nó hãy nói đôi điều cho tình nghĩa ở đời. Còn điều gì mình không nhặt được vẫn còn đó, giữa cõi đời. Cái không nhặt được ấy hẳn là không thiếu trên từng trang "Ngẫu hứng về chiều" - Nhưng nói mà làm gì, tất cả đều là "Ngẫu hứng" cả mà...
Huế, ngày thứ 20 năm Tân Mùi
N.M
(TCSH46/04-1991)
--------------
1. "Ngẫu hứng về chiều", Hồng Nhu. Hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên, 1988.
2. Tất cả các đoạn thơ in nghiêng đều rút từ tập "Ngẫu hứng về chiều".
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)