Lâm Thị Mỹ Dạ - “Hồn đầy hoa cúc dại”

10:18 09/10/2008
MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

Một cô gái đọc bài viết của Ngô Minh về Dạ đã khóc vì không thể ngờ cuộc đời nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ lại trần ai đến như thế. Quen biết Dạ đã gần bốn mươi năm nay, tôi thấy Dạ  là một phụ nữ chân thật, đa cảm, giản dị, tài hoa và tinh tế. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cũng như vậy. Nét riêng trong  phong cách thơ Lâm Thị Mỹ Dạ định hình từ rất sớm. Hầu hết những nhà thơ nổi tiếng xưa nay đều thế. Đời người và thời cuộc luôn biến động. Thơ cũng biến đổi theo. Nhưng với những nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Tản Đà... họ luôn giữ nét riêng trong phong cách của mình. Đánh mất cái cá tính sáng tạo ấy chẳng khác gì đánh mất chính mình.

Lâm Thị Mỹ Dạ, Hải Kỳ, Ngô Minh và tôi đều cùng quê Quảng Bình, đều say mê thơ ca, đều cầm tinh con trâu (tuổi kỷ sửu). Bốn chúng tôi đang ở cái ngưỡng giao thời từ U50 sang U60, nhưng có lẽ chỉ mỗi Dạ là còn giữ được nét hồn nhiên, yêu đời với một tâm hồn chứa đầy “hoa cúc dại”. Ngoài 50, theo người xưa là cái tuổi “tri thiên mệnh” (biết mệnh trời); là cái tuổi: Vinh quang, khổ đau đã trải/ Bình thản nhìn đời bể dâu (Hồng nhung và bông cúc); là cái tuổi suy tư, chiêm nghiệm: Bây giờ thì tôi hiểu/ Lòng người hơn Bayon/ Bốn mặt còn chưa đủ/ Biến hoá còn nhiều hơn (Ngước nhìn trời cao); là cái tuổi đã biết “sự dối lừa trá hình trong giọng lưỡi ngọt ngon”. Nhưng khác với tôi, Ngô Minh, Hải Kỳ... Lâm Thị Mỹ Dạ là một phụ nữ làm thơ. Dạ từng chia sẻ với các bạn nữ làm thơ ở Nha Trang: Đàn bà làm thơ trăm cái khổ/ Thấm vào trong như cát chẳng thấy gì/ Góc khuất nào lòng người chưa thấu được/ Xin chia cùng cho bạn nhẹ chân đi... (Thân phận tơ trời). Cái thân phận tơ trời mong manh ấy đang hàng ngày phải đối mặt với “chuyện đời thường, chuyện bệnh tật, thuốc thang...”. Kể từ khi nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (chồng Dạ) không may bị tai biến: Đời bất chợt thác ghềnh ào trút xuống/ Vùi lấp anh - cơn bạo bệnh kinh hoàng, Dạ trở thành người “bảo mẫu” đút từng thìa cháo, bón từng muỗng cơm cho chồng. Không những thế, nói như Ngô Minh, Dạ còn “cõng” chồng đi khắp bắc, trung, nam tìm thầy, chạy chữa. Dạ âm thầm chịu đựng: Nước mắt lặn vào trong cho anh thấy nụ cười/ Bệnh tật, lo toan giấu vào trong đêm vắng/ Giữa tháng ngày trĩu nặng/ Em đứng thẳng người/ Cho anh tựa vào em (Cho anh tựa vào em). Lâm Thị Mỹ Dạ không hề che giấu cái nhan sắc tàn phai theo năm tháng của mình: Bây giờ trên má em/ Nếp nhăn dần lộ rõ/ Trên tóc em/ Sợi bạc dần choán chỗ (Anh đã nhìn thấy em).

Điều kỳ lạ là sau bao nhiêu thăng trầm, sau bao nhiêu nếm trải, sau bao nhiêu vận hạn... tâm hồn của Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn chứa đầy “hoa cúc dại”! Nghĩa là Dạ vẫn giữ được chất hồn nhiên, yêu đời, tươi trẻ mà nhiều người ở vào cái tuổi như Dạ (trong đó có tôi) đã đánh mất từ lâu. Có ai như Dạ đi chợ tết lại tìm mua cho mình (chứ không phải cho con) chú gà đất và sung sướng reo lên: Chợt thấy cầu vồng sà trước mặt/ Trăm loài hoa đẹp nói lời mơ/ ...Sáng nay thời tiết như mười bảy/ Tở mở lá cành ngơ ngác hương (Màu phố Phái). Nghe được trăm loài hoa đẹp nói lời mơ, cảm nhận được cái ngơ ngác của những làn hương trong gió xuân phải là một tâm hồn rất trẻ trung và yêu đời. Cách so sánh “sáng nay thời tiết như mười bảy” thật mới mẻ. Cũng không có ai như Dạ, đi lang thang bên dòng sông Hương mà “ngu ngơ trôi” đến nỗi “quên cả phố nhà”. Phải yêu vẻ đẹp của sông Hương đến mức nào, phải hồn nhiên đến mức nào Dạ mới biến thành đứa trẻ ngây thơ như vậy. Trong bài Hồn đầy hoa cúc dại”, Lâm Thị Mỹ Dạ hỏi con gái: Có nghe trong cơn gió/ Hương của mùa xuân nào/ Có nghe thời tuổi dại/ Nói cười trong chiêm bao... Điều đó có nghĩa là Dạ đang nghe hương của mùa xuân, đang nghe tiếng nói cười của thời trẻ dại. Không phải bất cứ ai cũng có cái “nghiêng tai kỳ diệu” như Mỹ Dạ.

Đọc Hồn đầy hoa cúc dại, tôi cứ băn khoăn không hiểu tại sao một người “tóc điểm bạc mà hồn còn trẻ nít” như vậy? Và tôi đã thử đi tìm câu trả lời ngay trong tập thơ này của Lâm Thị Mỹ Dạ. Phải chăng vì Dạ có một tuổi thơ hết sức hồn nhiên, trong sáng? Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng, lại được tắm mình trong giọng hò khoan Lệ Thủy ngọt ngào, trong tình thương của người mẹ côi cút tảo tần. Hình ảnh phiên chợ quê cứ hiện rõ mồn một trước mắt Dạ: Bây giờ xa lắc chợ tuổi thơ/ Mùi quả, mùi rau thơm đến giờ/ Cá tôm còn nhảy long tong nước/ Tôi còn bé nhỏ mỗi lần mơ... Cái tính hay thương người của Dạ đã bộc lộ từ lúc còn bé nhỏ ấy. Thấy ông lão bán quạt đi đi lại lại mấy vòng, chợ thì đã quá trưa mà vẫn không có ai mua, thế là cô bé động lòng trắc ẩn, dồn tất cả tiền mẹ cho mua hết quát của ông lão. Lâm Thị Mỹ Dạ cứ tiếc mãi cái tuổi hồn nhiên, trong trẻo ấy: Biết bao giờ trở lại/ Màu trong vắt của trời/ Khép làn mi trinh nữ/ Tháng giêng tràn lên môi... Dạ bồi hồi nhớ: Bông lay ơn - ai tặng/ Tháng giêng giấu nơi nào/ Để màu hoa lửa cháy/ Chập chờn trong chiêm bao... Rồi Dạ đứng ngẩn ngơ: Tuổi vèo bay cùng gió/ Ta sắp qua tháng mười/ Ngoảnh lại nhìn xa lắc/ Một tháng giêng nhoẻn cười! (Tháng giêng). Sự hồn nhiên, trong sáng, đa cảm là một nét trong tính cách của Dạ, là một nét trong phong cách thơ Mỹ Dạ.

Một lý do nữa giúp cho Lâm Thị Mỹ Dạ mặc dù “gập lưng lặng lẽ giữa đời thường”, “tóc điểm bạc mà hồn còn trẻ nít” như thế chính là tình yêu thương các con. Mỗi lần các con ở xa về thăm là “lòng mẹ tươi nắng mới”. Dạ nói với con gái: Này con con thơ ngây/ Hồn đầy hoa cúc dại/ Mẹ ước chi mỗi ngày/ Được gần bên con mãi (Hồn đầy hoa cúc dại). “Hồn đầy hoa cúc dại” của con đã lan toả sang cả mẹ. Lâm Thị Mỹ Dạ như: Những bông hồng nhung lặng lẽ/ Thăm thẳm tuổi mình lắng sâu. Còn các con là những bông hoa cúc: Dịu thơm, chúm chím, nở đầy/ Cúc trắng, cúc vàng, cúc tím/ Vui như bầy trẻ thơ ngây. Và khi nghiêng đầu bên cúc: Hồng nhung nghe hồn trẻ lại/ Tin mùa xuân mãi vẫn còn (Hồng nhung và hoa cúc). Cũng chính các con đã làm sống lại “Ngày tình yêu của mẹ”: Con tặng mẹ hoa hồng/ Cháy bừng bao ngọn lửa/ Lắng trong làn hương thoảng/ Mẹ bỗng thành... ngày xưa !

Một lý do nữa - và theo tôi đó là lý do hết sức quan trọng giúp cho Lâm Thị Mỹ Dạ dù “gập lưng lặng lẽ giữa đời thường”, “tóc điểm bạc mà hồn còn trẻ nít” chính là nhờ Dạ học được ở thiên nhiên. Thiên nhiên đã dạy cho Dạ rất nhiều điều. Đầu tiên là tấm lòng hào sảng: Mùa đông bán cho mùa xuân/ Những búp đèn màu xanh biếc/ Dòng sông bán cho biển cả/ Bao nhiêu ngọn sóng trong ngời/ Mặt trời bán cho quả đất/ Triệu chùm ánh sáng tinh khôi... Thiên nhiên “bán” một cách vô tư, không cần tính toán thiệt hơn, không cần bạc tiền lời lãi. Nhờ tấm lòng hào sảng ấy mà thiên nhiên đẹp mãi, trẻ mãi không già. Lâm Thị Mỹ Dạ Ngước nhìn trời cao”, suy ngẫm: Vũ trụ bao nhiêu tuổi/ Mà ngây thơ lạ lùng/ Xin biết ơn mây trắng/ Cho tôi lòng bao dung. Nhờ tấm lòng bao dung học được ở thiên nhiên mà Dạ có cái nhìn hết sức nhân ái đối với những người lính Mỹ chết trận ở Việt Nam: Rồi có lúc cuối đường tôi gục ngã/ Viên đạn ai găm khuôn ngực máu đầy/ Xin hãy giở dưới làn da chó sói/ Trái tim nai thắm đỏ, thơ ngây (Khuôn mặt ẩn kín). Cũng nhờ học được tấm lòng bao dung của thiên nhiên mà khi đứng trước Bức tường đen” khắc tên hơn 58 ngàn lính Mỹ tử trận trong cuộc chiến ở Việt Nam, Dạ hết sức thông cảm với những người mẹ Mỹ mất con. Thiên nhiên còn “gây men” cho Dạ hồi xuân: Nói chi, sao thiết tha/ Nói chi, sao êm ái/ Hoa cho tôi thắm lại/ Tuổi xuân mình đã phai! (Hoa Hà Nội). Vào một “Buổi sáng trong vườn”,  Mỹ Dạ nhìn thấy: Cánh chuồn đỏ chao một vòng thơ dạ / Chú ếch vàng ngơ ngác giậu thưa, Dạ bâng khuâng hỏi: Sao sớm nay vườn xanh như cổ tích/ Cho ta thành cô bé lọ lem xưa. Câu hỏi ấy cũng chính là câu trả lời của Dạ, là lời cảm ơn chân thành của Dạ đối với thiên nhiên. Có thể nói trong thơ Mỹ Dạ tràn ngập những hình ảnh thiên nhiên.

Tâm hồn Lâm Thị Mỹ Dạ không chỉ chứa đầy “hoa cúc dại” mà còn ẩn giấu bao nhiêu mơ ước, khát vọng. Có những mơ ước tưởng chừng hết sức bình thường như “được gần bên con mãi” nhưng xem ra khó lòng biến thành hiện thực; huống là những ao ước hết sức mong manh như: Ước làn hương ở trong nhà/ Để cô đơn chẳng còn là cô đơn (Đi qua một làn hương), hay: Ước trời còn cất giữ được/ Tiếng hát bao đời ve xa (Những chú ve ca hát). Trước đây, nhà thơ Xuân Diệu từng muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để “màu đừng nhạt mất”, để “hương đừng bay đi” (Vội vàng) thì trong “Sau xuân” Lâm Thị Mỹ Dạ cũng “ngông cuồng” không kém: Có một bông đào sau xuân mới nở/ Có một bông đào muốn níu lại mùa xuân! Như tất cả những người đàn bà trên cõi đời này, Dạ cũng mong ước có một chỗ dựa vững chắc, có một người yêu lý tưởng. Đó là người “hồn xanh như cỏ”, “tâm rộng như trời”, “thông minh, tinh tế”, “bao dung, bản lĩnh”... để Dạ có thể “thả đời rong chơi”, để Dạ có thể úp mặt: khóc to một lần, khóc như trẻ nhỏ, chẳng cần giấu quanh!... Nhưng Dạ cũng thừa hiểu rằng làm sao tìm được trên trái đất này một con người hoàn thiện như thế. Cho nên Dạ chỉ biết thở dài: Tưởng tượng một người/ Ừ thôi tưởng tượng... Khát vọng hướng đến con người hoàn thiện, theo tôi là khát vọng hết sức cao đẹp và chính đáng của Dạ.

Lâm Thị Mỹ Dạ đã từng Nguyện cầu”: Vì cái đẹp/ Vì thơ/ Ta sống/ Tâm hồn ơi/ Đừng hoá thạch/ Xin đừng... Ấy thế mà mới đây, Dạ lại đột ngột giơ cao lá cờ trắng trước thơ. Bài  Lá cờ trắng” của Dạ gây sửng sốt đối với không ít những bạn yêu thơ trong và ngoài nước. Làm sao Dạ có thể “tự thiêu chính mình” như thế được! Tôi không tin và tôi không muốn tin! Tôi nghĩ đây chỉ là một cách nói để tôn vinh “thơ cao sang, thánh thiện” của Dạ mà thôi. Cái tâm hồn chứa đầy “hoa cúc dại” ấy không thể nào “đóng băng” được. “Hồn lửa” mà Dạ “cất giấu” chắc chắn lại có dịp “bùng cháy”. Một người đã từng viết: Em muốn lòng kiêu hãnh trong em/ Mãi tươi tốt mặc tình yêu thách đố  - người đó quyết không thể dễ dàng kéo cờ trắng đầu hàng.
M.V.H

(nguồn: TCSH số 223 - 09 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.