Làm giàu trên bãi cát khô

17:03 30/05/2008
Có một lão ngư kiêm lão nông suốt mấy chục năm trời vắt mồ hôi thành muối, tưới mồ hôi thành sông hồ mà mảnh vườn nhà vẫn cằn khô, chiếc thuyền nhà vẫn không tanh mùi cá biển. Quang cảnh vườn nhà cứ một mùa xanh lại ba mùa rụng lá, khô cành. Vợ chồng con cái chỉ thấy mắt chẳng thấy mồm. Xung quanh hàng xóm cũng chung hoàn cảnh.

Nhìn rộng xa xung quanh các xã huyện xa gần, thấy đổi đời nhanh quá, đổi giọng càng nhanh hơn. Lại nghe ở các tỉnh xa, xưa vốn chẳng giàu, nay bỗng dưng xe máy nhà lầu vùn vụt hiện. Như phép thần tiên.
Bèn giỏng tai nghe, chăm mắt nhìn, căng óc suy nghĩ. Chợt biết nhiều kẻ vụt giàu vì làm ăn phi pháp, từ kẻ thất cơ thành ông tỉ phú, thoắt đó lại biến thành tội phạm. Lại có người thừa cơ phép nước chưa toàn; nống ra làm ăn chụp giựt, bán đó buôn đây, giàu nhanh như nước nổi. Hết thời đổi mới ban đầu bung ra vô tổ chức, đến thời đổi mới có căn cơ, những kẻ kia ngồi chơi xơi quả đắng. Giàu như vậy có sướng gì đâu!
Nghĩ mãi rồi cũng đâm phẫn chí đâm liều. Thử xem mảnh vườn đất cát vì sao trồng cây cây chết, đào giếng giếng khô. Cũng coi như tự phá vườn thành ao, coi thử trời cao có mắt?
Thời may mưa lớn, ngập cả ao vườn. Lụt biển dâng cao, nước tràn qua ao đầy ắp mặn ngọt. Lão cũng chẳng buồn ngó tới ngó lui. Cứ thử coi trời làm chi cho biết.
Ba tháng sau, đứa cháu nhỏ ra vườn trèo lên bức tường cát nghịch chơi, bỗng trượt chân rơi tõm xuống ao. Nghe tiếng thét gào, ông lão vội nhào ra cứu cháu. Ao đã cạn hơn trước, nước chỉ chừng ngang thắt lưng. Bồng cháu trên tay, cháu thì khóc, ông thì cười. Vì ông bỗng thấy dưới lòng ao những con cá con tôm bơi lượn. Cá chẳng có nhiều, chỉ thấy toàn tôm to như ngón chân cái ồn ào búng nhảy, khoe râu. Toàn một dòng tôm sú. “Lạ thật! Tôm ở đâu ra? Mình chẳng nuôi mà vẫn lớn?”. Hỏi tới hỏi lui, mới hay bà lão nghe ai bảo “có nước có cá” bèn đi bắt mấy con tôm đâu đó thả vào. Lại lấy thức ăn thừa ném bừa xuống ao. Coi như cầm bằng cái ao là cái hố rác. Cái bà lão quả là khôn!
Bắt hết tôm rồi, ông lão phát huy thắng lợi, tự mình chọn giống tôm, chọn thức ăn không gây uế tạp nước hồ. Ngày ngày siêng năng coi sóc. Mùa sau, tôm trúng lớn. Tiếng lành lập tức vang xa. Người trên huyện, trên tỉnh, cán bộ khuyến nông, cán bộ thuỷ sản tới tấp về thăm. Các nhà báo nghe tin cũng vội vàng tới khảo sát viết bài biểu dương “người tốt việc tốt”, tay không dựng nổi cơ đồ. Hứng chí ông lão chọn khu đất cát phía trên cao, làm thêm một cái hồ nữa. Lần này, thất bại ê chề. Nước dẫn vào, cát lại dẫn ra, vì lẽ hồ ở cao hơn mực nước biển. Vắt óc nghĩ mấy ngày, làm liều mua hàng chục tấm bạt đem về may, lấy keo dán kín các mép rồi trải xuống lòng hồ, cũng như ta lót tấm ni-lông lành trong chậu rách để đựng nước. Khắc phục được khâu giữ nước, đến khâu tôm chết vì bệnh thì quá gay go. Lúc này, ông lão đã hơi chán chường, toan bỏ cuộc. Vừa may, cậu con trai là kỹ sư thuỷ sản tốt nghiệp loại giỏi, trở về tiếp sức cùng cha. Thế là mọi sự xuôi chèo mát mái. Nghề nuôi tôm trên cát, hay đúng ra là vét cát xây thành hồ nuôi tôm bằng chính nước biển cộng với nước ngọt ra đời. Gia đình ông lão giàu lên rất nhanh từ bốn bức tường cát của cái hồ. Do vậy, người ta gọi là “tường cát làm nên giàu”: TƯỜNG CÁT PHÁT PHÚ.
Chẳng mấy chốc, từ cái tỉnh Ninh Thuận nhỏ bé, nghề nuôi tôm trên cát nhanh chóng phổ biến đến các tỉnh Sóc Trăng, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế và nhiều nơi khác. Nhưng liệu có phải là kiểu làm kinh tế phong trào một thời như kiểu nuôi cá trê phi, nuôi ốc bươu vàng chăng? Xã hội ta vốn có truyền thống khơi dậy phong trào, rồi sau đó...
Thực ra, đã hàng chục năm dân ta quen với nghề nuôi tôm nước lợ, nuôi tôm càng xanh, thậm chí có nơi còn mạnh dạn nuôi tôm sú nước ngọt. Thành công do người, thất bại do trời. Thật thế! Chỉ cần một trận lụt tràn bờ, bao nhiêu công lao trôi sạch cả. Hôm nay là triệu phú, tỉ phú, ngày mai có thể phải bán cả gia sản trở thành khố rách áo ôm. Dân nuôi tôm ở đầm phá, hồ ao sợ lụt hơn cả dân trồng lúa. Vốn lớn thì có thể lãi nhiều nhưng vốn lớn thì cũng có thể lỗ nặng. Cái sự bấp bênh như thuyền nhỏ trước sóng to này là vấn nạn của nghề nuôi tôm, từ lâu chưa giải quyết được. Đó là chưa kể việc nuôi tôm ở đầm phá, ao hồ tự nhiên hoặc ao hồ đất có nhiều khó khăn: Không chủ động được tỉ lệ nước mặn trên nước ngọt. Không tự chủ chống ô nhiễm nước trong ao hồ hoặc đầm phá. Khó ngăn được sự mất mát tự nhiên do cạnh tranh sinh tồn của các loài thuỷ sản. Không chủ động ngăn ngừa và kiểm soát được dịch bệnh. Lại nữa, khó khống chế số lượng thức ăn vừa đủ do sự khuếch tán tự nhiên theo dòng nước trên đầm phá.
Nghề nuôi tôm trên cát có 6 thuận lợi lớn. Không sợ lụt vì hồ được chọn xây ở vị trí cao trên mức đỉnh lũ ở địa phương. Chủ động được nguồn nước biển nguyên chất, sạch và có nhiều loài thủy sinh như phù du có thể bổ sung thức ăn cho tôm. Khống chế tỉ lệ nước mặn trên nước ngọt theo ý mình, phù hợp môi trường sống của tôm (nhất là tôm sú). Nguồn nước ngọt được lấy từ mạch nước ngầm, được xử lý trước khi xả vào hồ, nên rất trong sạch. Chủ động được việc ngăn ngừa dịch bệnh và loại trừ các loài thủy sinh có hại. Lượng thức ăn được cung cấp đủ theo nhu cầu sinh trưởng của tôm thịt đã được khảo sát kỹ. Ôn định nhiệt độ và chống được ô nhiễm nước ao hồ...
Đó là những ưu điểm vượt trội của nghề nuôi tôm trên cát đúng ra là nuôi tôm bằng hồ trên đồi cát mà anh Lê Thành Châu, một trong bốn đồng chủ hồ nuôi tôm thịt đầu tiên ở xã Quảng Ngạn, đã nói một cách đầy tự tin với tôi.
Một buổi tối, tôi lội bộ dọc bãi cát ven biển thôn Tân Mỹ A đến thăm hồ. Với giọng nói tự tin và đầy hào hứng, anh Trần Thanh Tuấn một đồng chủ hồ đã kể cho tôi nghe về quá trình học nghề, bàn bạc góp vốn, lập dự án xin đất và bắt tay xây dựng hồ. Tất cả chỉ sau 2 tháng, hai hồ nuôi tôm thịt mỗi hồ rộng 2500m2 đã ra đời. Tổng chi phí xây dựng hồ và máy bơm nước ngọt, nước biển, máy sục oxi, hệ thống lọc rác bẩn và các phụ kiện khác lên tới 130 triệu đồng. Đó là còn nhờ lợi thế xây hồ đầu tiên, tự do chọn vị trí, tránh phải thương thuyết với đồng bào trong làng xã về việc phải nhổ cây dương của họ (vì không phải nhổ cây nào) và đền bù mặt bằng... Các hộ sau này muốn xây hồ tôm đã gặp phải rắc rối, tạm gọi là “vụ kiện cây dương liễu”, làm hao tổn tâm trí và thì giờ; chưa kể chuyện mất tình hàng xóm do kiện tụng. Chưa nói đến chuyện có kẻ giật dây gây rối nữa.
Dù là ban đêm không trăng, anh Tuấn cũng rất nhiệt tình rọi đèn pin cho tôi xem. Hồ hình chữ nhật, bốn thành hồ xây cao hơn hai mét, tà luy dương chừng ba mươi độ theo độ dốc tự nhiên. Lòng hồ nom giống như một cái âu. Đáy và thành phủ kín bằng các tấm bạt dày may khít, có dán keo chống rò rỉ ở đường may. Mỗi tấm bạt rộng 100m2, mua ở Thái Lan qua các đại lý ở Huế và Đà Nẵng. Phần đáy phủ dày cát để tạo môi trường gần tự nhiên cho tôm sống, cũng là để giằng các tấm bạt. Trên thành hồ được chèn bởi các bao cát lớn như bao xi măng lên mép bạt, chắc nình nịch. Như vậy, nếu có bão lớn cũng khó làm bật tung bạt, ngoại trừ các cơn lốc xoáy cực mạnh chưa xảy ra. Hồ nằm cao hơn mực nước biển chừng ba mét, tức cao hơn mức lụt biển trung bình độ một mét. Cứ hy vọng rằng trời phù hộ người có tâm, sẽ chưa vội gây ra các cơn bão, lụt lớn trong vòng vài chục năm nữa, kịp cho dân làm giàu...
Cũng bằng giọng nói rành mạch quả quyết, anh Châu hẹn tôi ba tháng sau - khi thu hoạch lứa tôm đầu tiên - sẽ đãi tôi một chầu tôm tươi nhậu với rượu Lai Hà.
Tôi cười, ngâm:          
Rượu quê ta, tôm của hồ ta
Muốn nhậu bao nhiêu chẳng đặng mà
Gió biển, trăng trời pha với rượu
Vị tôm càng ngọt giọng ngâm nga
Tôm nuôi trên cát tôi chưa được ăn, nhưng tôm sống trên phá Tam Giang có vị ngọt lừ, phá rượu kinh khủng. Những con tôm tươi ròng, to cỡ ngón tay cái, nhảy tanh tách trong xô nước rồi bị nhảy luôn vào nồi nước sôi. Ngọt chi lạ! Ngọt thấu máu!
Nhưng dù tôm ngọt đến mấy cũng chớ dại coi thường rượu Lai Hà. Đó là thứ nước tiên được chiết ra từ gạo làng Phong Lai, chưng với thứ “thuỷ niệu” tiết ra từ lòng cát trong vắt vắt. Vị đất thấm trong hương rượu làm cho rượu Lai Hà có một hương vị đặc biệt, nhấp một ngụm nhỏ đã mềm môi tê lưỡi. Say từ từ và không nhức đầu. Say rồi, người cứ như đang bay trên mây, nhìn cảnh vật và người xung quanh ngả nghiêng múa lượn như lên đồng, vui đáo để. Nhưng chớ nên chơi đến ngụm thứ n+1 sẽ hết vui. Lại thêm cái không khí, cái phong vị đầm phá mênh mông với gió biển mặn mà và mát rười rượi, với cái chống chếnh chông chênh của chiếc thuyền tròng trành theo sóng vỗ khiến lòng kẻ say ta muốn hát khúc Hồ Trường của Dương Bá Trạc!
Vỗ gươm mà hát
Nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang - ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta - cạn một hồ trường
Ôi! Chỉ cần nhìn thấy con tôm đầm phá Tam Giang với rượu Lai Hà đã nghe rừng rực trong người.
Tiếc là phải đợi đến mùa thu hoạch lứa tôm đầu mới có thể biết được vị tôm nuôi trên cát ngọt lịm cỡ nào!
Sẽ ngọt ngào và trân quí vị con tôm nuôi trên cát hơn nếu biết dược cái sự nhọc nhằn kỳ công của nghề nuôi tôm thịt. Học kỹ thuật pha nước theo tỉ lệ mặn trên ngọt bằng 20 phần nghìn đã đành, vẫn cần có kỹ sư thuỷ sản lành nghề làm chuyên gia cố vẫn, trả lương theo phần trăm sản lượng thu hoạch. Không đợi thời công nghiệp hoá thành công, chất xám lúc này đã được người sản xuất coi trọng. Hằng ngày, phải lo đo nước, do độ pH, sục ôxy, vét rác rưởi, ngăn chặn hiểm họa dịch bệnh và những sinh vật sống trong nước coi tôm là mồi ngon bất ngờ lọt vào hồ. Việc này, người chủ hồ phải lo, không thuê ai được. Suốt ngày đêm thay nhau canh gác, túc trực, mưa nắng chẳng nề. Từ khi thả con tôm xuống hồ, nhỏ như que tăm; sau ba tháng mười ngày chăn nuôi bằng thức ăn Thái Lan sản xuất, con tôm đủ nặng để xuất. .. hồ. Khi đó, mỗi ký tôm chừng 35-40 con. Tỉ lệ thất thoát theo các nơi cho biết cỡ chừng 20 phần trăm. Sau ba vụ, tiền lãi đủ thu hồi vốn. Ây là kinh nghiệm các nơi. Thì cứ tin vào điều mình hiểu, mình học, sức mình làm và tin cả vào điều may mắn nữa. Không có lòng tin, không có nụ cười.
Ây là cái sự nhọc nhằn kỳ công của nghề nuôi tôm thịt trên cát. Nghề nuôi tôm giống trên cát còn chóng mặt hơn.
Từ cái trứng tôm nở ra “con nâu” (*), nhỏ li ti mắt thường khó nhìn thấy. Sau ít ngày nuôi chư, trải qua vài vòng biến đổi với hai tên gọi khác nhau, con nâu hoá thành “con Pốt” to cỡ sợi tóc. Đó là lúc người chủ trại nuôi tôm giống cho xuất hồ. Các chủ hồ nuôi tôm giống đến mua. Giá cả và bảo hiểm chủ yếu thỏa thuận bằng miệng bởi đã làm ăn với nhau phải giữ chữ tín làm đầu. Người sản xuất kinh doanh Việt đã bắt đầu biết trọng chữ tín, bỏ cái lối buôn bán “sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi” lạc hậu và đáng ghét kéo dài bao nhiêu lâu kể từ khi mở cửa thị trường. Trong mối quan hệ đặc biệt này, người dân ta vẫn chưa chú trọng đến vai trò giấy tờ hợp đồng. Tiến thêm một bước nữa, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, người dân ngoài lòng tin đơn thuần còn cần phải quen với lối làm ăn tuân thủ hợp đồng đã ký. Chữ Tín cộng chữ ký bằng chữ Thành. Muốn giúp dân làm giàu, Nhà nước phải nhanh chóng hoàn thiện các bộ luật, nhất là luật về quan hệ dân sự, luật kinh doanh, luật đất đai và các văn bản dưới luật, cải cách triệt để hệ thống hành chính để phát huy tác dụng của Tòa án dân sự, Tòa án kinh tế, Tòa án hành chính. Dân có thể kiện quan và quan có thể sẽ bị thua kiện nếu làm sai luật. Dân chủ - quyền làm chủ của dân - là vậy.
Miên man đôi chút về chính trị, bây giờ trở lại chuyện nuôi tôm giống trên cát. Anh Trần Chung quê ở Quảng Ngạn hợp tác với anh Phan Châu ở Tây Lộc - TP Huế, nguyên cán bộ thuỷ sản huyện Hương Điền trước đây và một người nữa xây hồ nuôi tôm giống rộng 4700m2. Mới sử dụng 100m2, đã thả được 5 vụ. Vụ đầu thả 60 vạn con, thu hoạch đủ 60 vạn con. Vụ sau thất thoát 40 phần trăm. Bù đi bù lại là huề. Ba vụ sau, tỉ lệ thất thoát giảm còn 20 phần trăm, chấp nhận được. Theo anh Chung nuôi tôm giống trên cát có nhiều lợi thế tương tự nuôi tôm thịt nhưng kỳ công hơn. Chỉ riêng chuyện cho tôm ăn 4 giờ một lần cũng đủ mệt nghỉ. Nuôi tốt thì sau 6 ngày, trọng lượng tôm từ 10 vạn con một ký tăng lên 8 vạn con một ký. Sau 10 ngày độ 6 vạn con. Khi đó, vừa kịp xuất hồ. Thức ăn thời gian đầu là thức ăn sản xuất trong nước, sau đó là thức ăn mua của Thái Lan; đắt hơn nhưng chất lượng hơn.
Có lẽ các nhà sản xuất thức ăn cho tôm, cho cá nuôi đã đến lúc phải mời chất xám vào cuộc sống rồi đấy. Lẽ nào trí tuệ Việt thua trí tuệ Thái Lan. Lẽ nào bao nhiêu tiến sĩ mà không chế tạo, không tìm ra được một công thức hoàn hảo sản xuất thức ăn bột cho tôm? Hay là lại đợi mấy ông nông dân giỏi ngang tiến sĩ như ông Lý Huỷnh ở Quảng Bình làm được rồi mới đến lượt các quan trí thức đứng ra lập hội đồng giám định phán xét cái mình không làm được, dân thất học làm được chăng? Tựa như chuyện các ngài tiến sĩ, kỹ sư ngành xây dựng đã từng phê phán chê bai phương pháp dời nhà bằng con lăn của ông Nguyễn Cẩm Lũy vậy đó. Nhưng dân vẫn tin ông hơn tin các vị tiến sĩ, kỹ sư giấy tờ công chức. Mong rằng điều này đừng xảy ra với chuyện dân phá Tam Giang tự sản xuất thức ăn nuôi tôm bằng chính sản vật địa phương. Hến được cào lên, đem luộc, phơi cho se, sau đó đem luộc cá các loại rồi hoà với cám, với bột bỏ vào máy nén đùn ra từng thỏi thức ăn bằng ngón tay. Tôm ăn thức ăn này, lớn nhanh lắm. Đó là lời khẳng định của anh Trần Chung đồng chủ hồ nuôi tôm giống đầu tiên ở Quảng Ngạn - Quảng Điền.
Ngoài ra, thiết nghĩ chúng ta cũng nên học tập cách nuôi giun đất công nghiệp làm thức ăn cho cá tôm như ở đồng bằng sông Cửu Long và TP.Hồ Chí Minh đang làm. Học cái khôn của người, túi khôn của mình càng lớn.

Tôi đứng trên mặt hồ lộng gió biển khơi mà lòng dậy lên một niềm tin mãnh liệt. Rằng dù khô như cát, nhưng khi người nông dân Việt Nam biết chuyên tâm hành động với trí tuệ, lòng tự tin pha chút mạo hiểm lãng mạn thì việc làm giàu từ những đồi cát khô có khó gì! Ây là điềm lành (cát tường) phát giàu sang cho dân. Vì thế, bút ký này còn có tên là TƯỜNG CÁT PHÁT PHÚ.
Trại sáng tác VHNT Quảng Điền 23 tháng 6-2001

PHẠM XUÂN PHỤNG
(nguồn: TCSH số 151 - 09 - 2001)

---------------------------------------------------------
(*) Từ trứng (egg) nở ra ấu trùng (Nauplius) qua 6 giai đoạn biến thái trở thành con Zoea (Zoa), qua giai đoạn sinh trưởng trở thành con Mi (Mysis) rồi đến con Pốt (Postlarvae). Sau con Pốt, tôm con rời sông ra biển, biến thành con tôm trưởng thành.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.

  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.