Lai lịch một bức tranh

09:04 20/08/2008
ĐẶNG NHẬT MINHĐầu xuân Nhâm Ngọ nhân dự khai mạc phòng tranh của một người bạn hoạ sỹ, tôi tình cờ được gặp bác Lương Xuân Nhị. Bác cho biết năm 1943 khi sang Nhật trưng bầy triển lãm tranh bác có gặp cha tôi là bác sỹ Đặng Văn Ngữ đang du học tại đấy. Bác còn giữ một số ảnh chụp với cha tôi và hẹn tôi đến nhà để biếu lại cho gia đình làm kỷ niệm.

Cha tôi hy sinh cách đây đã 35 năm, nhưng những gì có liên quan đến cuộc đời của ông quả thực chúng tôi trong gia đình cũng chưa biết hết, nhất là giai đoạn 7 năm nghiên cứu khoa học tại Nhật. Bởi vậy tôi không khỏi háo hức khi đến thăm bác Nhị tại nhà riêng ở số nhà 29 phố Cửa Nam, mong được nghe bác kể đôi điều về cha tôi trong những lần gặp gỡ ở Tokyo cách đây đã 59 năm. Bác Nhị thân mật tiếp tôi trong phòng khách đơn sơ, trên tường treo những bức tranh ghi dấu các thời kỳ khác nhau trong cuộc đời sáng tác của mình. Tôi nhận ra Hà Nội với chiếc tầu điện màu đỏ ven Bờ Hồ như một kỷ niệm khó phai, rồi cửa Thượng Tứ ở thành phố Huế quê hương tôi, những cảnh làng quê thân thuộc, vài bức ký hoạ vẽ tại Algerie... và một bức tranh sơn dầu với cảnh núi Phú Sỹ được vẽ trong chuyến đi Nhật của bác. Trước hết tôi tò mò muốn biết lý do của chuyến đi ngày ấy. Bác Nhị cho biết chuyến đi triển lãm tranh này do Hội Bunka Sinkokai của Nhật tổ chức. Trước đó họ đã tổ chức 2 cuộc triển lãm tranh của các hoạ sỹ Nhật tại Hà Nội. Hoạ sỹ nổi tiếng Nhật Bản Fujita cũng đã từng đến thăm bác tại căn nhà này. Đoàn hoạ sỹ được mời sang Nhật ngày ấy có 3 hoạ sỹ Việt Nam là Lương Xuân Nhị, Nam Sơn, Nguyễn Văn Tỵ và một hoạ sỹ người Pháp sống ở Sài Gòn tên là Bâte. Ba hoạ sỹ Việt đáp tầu hoả vào Sài Gòn nhưng Bâte không thèm ra ga đón họ. Trong cuộc gặp mặt hôm sau ở Toà Công sứ Nhật Bâte viện cớ bị mệt. Vì thái độ khiếm nhã, coi thường các đồng nghiệp bản xứ nên ông ta bị Toà Công sứ Nhật gạt tên ra khỏi danh sách đi Nhật. Vậy là đoàn chỉ còn lại 3 hoạ sỹ Việt nam. Đó là vào tháng 7 năm 1943 khi chiến tranh giữa Nhật và Mỹ đã bắt đầu. Sợ đi đường biển không an toàn các hoạ sỹ được gửi đi nhờ trên các máy bay quân sự để sang Tokyo . Bác Nhị kể: Tokyo hồi đó vẫn còn yên tĩnh lắm và cuộc triển lãm được tiến hành rất tốt đẹp. Một trong những ấn tượng sâu sắc còn giữ lại trong ký ức của bác là những lần gặp gỡ với cha tôi cùng các du học sinh Việt tại Nhật. Họ không đông, có chừng hơn mươi người. Bác Nhị cho tôi xem những bức ảnh đen trắng tuy đã ngả vàng nhưng còn rất rõ nét. Tôi cảm động nhận ra vóc dáng thư sinh của cha tôi trong bộ complet mầu trắng ngồi cạnh bác Nhị và các bạn bè. Bác kể: Ông Ngữ thường đến thăm rồi đưa chúng tôi đi tham quan các danh lam thắng cảnh ở Tokyo . Một lần leo lên quả đồi trong công viên Uênô, ông nói đùa với tôi: Nhị trèo lên Núi Nùng.
Nhưng có một chuyện mà đến bây giờ bác Nhị mới nói cho tôi biết, trước đây bác chưa kể với ai bao giờ. Bác lật cuốn album đã sờn gáy chỉ cho tôi xem những tấm ảnh chụp lại những bức tranh mà bác đã vẽ trong thời gian ở Nhật. Bác chỉ vào một tấm chụp một bức tranh sơn dầu rồi nói với tôi: Đây! Chính bức tranh này là bức tranh mà ông Ngữ thích nhất. Bức tranh vẽ một vườn hoa, xa xa phía chiều sâu thấp thoáng một mái nhà gỗ kiến trúc kiểu Nhật. Vì xem qua ảnh đen trắng nên tôi không rõ được mầu sắc của tranh, nhưng hẳn là rất đẹp. Bác Nhị kể tiếp: Ông Ngữ ngỏ ý muốn mua bức tranh để gửi về tặng gia đình ở Huế. Tôi biết tiền học bổng của ông không nhiều nên nói: Nếu ông thích tôi có thể biếu ông. Nhưng ông cứ đòi trả tiền. Tôi nhớ ông đưa tôi 30 yên Nhật, không biết 30 yên ngày đó giá trị là bao nhiêu. Và rồi ông nhờ tôi đem bức tranh đó về Hà Nội trao cho một người bạn bác sỹ để chuyển về cho gia đình ông ở Huế. Bác chỉ tiếp vào những tấm ảnh khác nói: bức này đang nằm ở Hàn Quốc, bức này đang nằm ở Hongkong v.v... còn bức tranh mà cha anh mua thì tôi đem về.
Ngồi nghe bác Nhị kể lại những kỷ niệm xưa, tay lần dở những bức ảnh trong cuốn album cũ tôi có cảm tưởng như cha tôi đang có mặt trong gian phòng này. Tôi muốn bác Nhị kể thật nhiều, thật nhiều nữa về những ngày gặp cha tôi ở Nhật. Tôi gạn hỏi: Bác còn kỷ niệm gì nữa về cha cháu không? Trầm ngâm giây lát bác kể tiếp: Sau một tháng ở Nhật, trưng bầy triển lãm xong, chúng tôi đáp tầu hoả rời Tokyo về Osaka để lên tầu thuỷ về nước. Cha anh cùng các bạn đã ra sân ga và đã hát một bài hát Việt nam để tiễn đưa chúng tôi. Tôi không nhớ bài hát đó là bài hát gì. Chỉ nhớ rằng những người Nhật có mặt trên sân ga đều hết sức ngạc nhiên, còn chúng tôi thì cảm động vô cùng.
Trở về Hà Nội, bác Nhị đã làm đúng lời hứa với cha tôi: trao lại bức tranh trên cho người bác sỹ, bạn của cha tôi, để ông chuyển về Huế cho gia đình tôi. Nhưng gia đình chúng tôi ở Huế đã không bao giờ nhận được bức tranh đó. Bác Nhị kể tiếp: Sau ngày hoà bình lập lại ở Miền Bắc, có lần gặp ông Ngữ tôi có hỏi về chuyện bức tranh. Ông chỉ cười lắc đầu. Bác sỹ Q. người mà cha tôi nhờ chuyển bức tranh về Huế cho gia đình, đã không làm việc đó. Khi đất nước chia cắt 2 miền ông đã di cư vào , từ bỏ nghề bác sỹ, chuyển sang làm chính trị. Ông đã chết không lâu sau ngày giải phóng Miền . Nhưng tôi thật bất ngờ khi nghe bác Nhị kể tiếp: Bức tranh ấy hiện nằm trong Viện Bảo tàng Mỹ thuật. Tôi cũng không biết bằng cách nào mà nó lại có ở đó. Mấy năm trước tôi còn thấy nó được trưng bầy. Chuyện này hôm nay tôi mới nói với anh lần đầu vì nó có liên quan đến cha anh. Tôi muốn nói để anh biết rằng: Bức tranh tôi vẽ ở Nhật, hiện nằm trong Bảo tàng Mỹ thuật đó là bức tranh của cha anh.
Nghe đến đây lòng tôi dấy lên một niềm vui: thì ra bức tranh mà cha tôi yêu thích, muốn gửi về tặng gia đình cách đây 59 năm vẫn còn đó. Một ngày nào đó anh em chúng tôi có thể đến viện Bảo tàng Mỹ thuật để xem như nhớ về một kỷ niệm của cha mình. Bác Nhị trầm ngâm giây lát rồi nói: Tôi chắc ông bác sỹ kia thích bức tranh ấy quá nên đã giữ lại, rồi trước khi đi bán lại cho một ai đó ở Hà Nội. Không biết bức tranh đã qua tay bao nhiêu người trước khi Bảo tàng Mỹ thuật mua được. Bấy lâu nay tôi không công bố chuyện này vì không biết người đã bán cho Bảo tàng Mỹ thuật là ai. Tôi nói với bác: Bác ạ. Cũng chẳng cần biết làm gì. Điều quan trọng là bức tranh đó vẫn còn ở Việt Nam, không bị thất lạc. Thế là mừng rồi. Bác Nhị đồng tình với tôi: Thật vậy, nếu ngày ấy ông Ngữ không mua để gửi về cho gia đình thì có lẽ bây giờ nó đang nằm đâu đó ở nước ngoài.
Tôi nắm chặt tay người hoạ sỹ già đã trò chuyện với tôi trong buổi sáng mùa xuân này để nói với ông trước khi chia tay: Cám ơn bác đã kể cho cháu nghe một chuyện thật cảm động về cha cháu, về tình cảm của cha cháu đối với gia đình trong những ngày sống xa quê hương. Thì ra trong con người suốt đời say mê khoa học như cha cháu còn có một trái tim hết sức nhậy cảm trước cái đẹp. Bác Nhị gật đầu nói: Những nhà khoa học lớn đều có một trái tim như vậy. Bác tiễn tôi ra tận cửa. Ở tuổi 89 ông vẫn minh mẫn, hoạt bát lạ thường. Cha tôi nếu còn sống cũng bằng tuổi bác bây giờ, nhưng ông đã ra đi khi chưa đến tuổi 60 trong một trận bom B52 của Mỹ ở chiến trường Trị Thiên- Huế năm 1967. Ông không bao giờ biết được đoạn kết của câu chuyện có liên quan đến bức tranh mà mình yêu thích. Cả mẹ tôi nữa, cũng không bao giờ được nhìn thấy món quà tặng của chồng mình. Bà đã qua đời trên chiến khu Việt Bắc năm 1954. Dầu sao bức tranh vẫn còn đó như một kỷ niệm về cha tôi. Nó đang được lưu giữ như một tài sản chung cho tất cả mọi người.
Hà Nội, tháng 2 năm 2002
Đ.N.M
(nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TUỆ NGỌC

    Lê Anh Hoài là người thực hành nghệ thuật trên nhiều lĩnh vực như văn học, hội họa, trình diễn...

  • LÊ HUỲNH LÂM

    "Nghệ thuật không phải là vẽ lại các đồ vật, con người mà họa sĩ thấy. Nghệ thuật phải là sáng tạo nên các đồ vật, con người không thấy được."(Paul Klee)

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Tánh nước vốn vô hình và mềm mại. Nhưng nước lại có quyền năng biến hiện và tùy duyên hóa thân thành mọi vật, có khi là đám mây, khi là cơn mưa, có khi làm ngọn sóng cao vút nhấn chìm mọi vật, có lúc là những đợt sóng êm đềm, là dòng sông, con suối, là thác ghềnh, là biển cả bao la,... lại có khi là giọt lệ trên khóe mắt con người. Tuy nước rất mềm mại nhưng sức mạnh của nước có thể xô ngã mọi tượng đài tưởng chừng là thường hằng ở mặt đất này.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Sản phẩm từ cái khuôn mẫu đầu tiên đã đặt định con người trong thế bị động, và từ khởi thủy đầy hư cấu và huyền thoại đó bao nhiêu trí tưởng tượng đã được tạo dựng, việc chế tác một khuôn mẫu mới cho con người đã được đề cập đến nhiều lần.

  • Nhiều điều bí ẩn giấu đằng sau những chi tiết có thể nhìn thấy bằng mắt thường trong bức tranh "Susanna and the Elders" (Susanna và các Trưởng lão) của họa sỹ nổi tiếng thế giới người Hà Lan Rembrandt van Rijn vừa được công bố trên tạp chí Khoa học Vật liệu và Chế tạo số ra mới đây.

  • Các tác phẩm chọn lọc của thế hệ các nghệ sỹ trẻ Đức sẽ được quy tụ và giới thiệu đến công chúng thủ đô Hà Nội trong không gian triển lãm “Hội họa mới từ Đức,” khai mạc vào 17 giờ ngày 14/05 và trưng bày tới hết ngày 31/05, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, 66 Nguyễn Thái Học.

  • LTS: Họa sĩ Lê Bá Đảng sinh ngày 27/6/1921 tại làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông đã ra đi vào ngày 7/3 tại Thủ đô Paris nước Pháp, để lại dự án dang dở đáng tiếc về “một bức tranh rất lớn nằm ngửa trên mặt đất”, ước mong góp phần cho Huế trở nên một Kinh đô Mỹ thuật.
    Sông Hương giới thiệu “lời chia buồn sâu sắc” đọc trong Lễ tưởng niệm họa sĩ Lê Bá Đảng của tỉnh Thừa thiên Huế vào chiều 9/3 tại Trung tâm Nghệ thuật mang tên ông.

  • Đối với họa sĩ, để đi đến trừu tượng hay trạng thái “không gì cả”, anh ta đã phải cần đến rất nhiều thứ.

  • LÊ MINH PHONG

    (Nhân đọc Van Gogh của David Haziot, Phan Hồng Hạnh chuyển ngữ, Nxb. Đà Nẵng, 2014)

  • ...Nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa ảo giác (illusionist) đều xem nhẹ phương tiện, chúng dùng nghệ thuật để che giấu nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện đại lại dùng nghệ thuật để thu hút sự chú ý vào nghệ thuật.

  • “Từ mô phỏng đến phá hủy tự nhiên”: đây hoàn toàn có thể là nhan đề của một lịch sử nghệ thuật phương Tây. Một trong những nghệ sĩ hiện đại quan trọng nhất, và cũng có lẽ hiền minh nhất, Picasso, có nói: nếu chúng ta không thể thoát khỏi tự nhiên, như một số nghệ sĩ tiền bối và đương thời với ông đang cố gắng một cách vô ích, thì ít nhất chúng ta có thể làm biến dạng nó, phá hủy nó. Về cơ bản, đó chính là một hình thức mới của lòng sùng kính tự nhiên...

  • Năm mới là thời điểm của những tiệc tùng liên miên. Hội họa từ lâu đã rất quan tâm tới chủ đề này. Hãy cùng nhìn lại những bữa tiệc linh đình, nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa.

  • Trong tiếng Hy Lạp cổ, từ chỉ “nghệ thuật” là techne, chính là nguồn gốc của các từ technique (kĩ thuật) và technology (công nghệ) - những thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong cả ngành khoa học và nghệ thuật. Nhìn vào hội họa thế kỷ 19, ta nhận thấy các họa sĩ thực sự là những kỹ sư ánh sáng và màu sắc tài tình.

  • Một ngày nọ, khi vẽ một thiếu nữ, tôi chợt nhận ra điểm duy nhất sống động ấy là ánh nhìn như bất động của nàng. Những thứ còn lại có ý nghĩa không hơn gì cái sọ người. Người ta luôn muốn tạc nên một con người sống, nhưng điều khiến pho tượng ấy có sự sống chỉ có thể là ánh nhìn của người đó.

  • Các nghệ sĩ nữ thường là bộ phận ngoại vi trong những mô tả về tiến trình lịch sử, không chỉ của hội họa mà còn của nhiều loại hình nghệ thuật khác. Nhưng thực sự chính từ những nghệ sĩ nữ, những ý tưởng nghệ thuật táo báo, đột phá nhất, gây ảnh hưởng lớn thường được khai sinh. Ba nghệ sĩ nữ được giới thiệu trong chùm bài viết này đã cho thấy sự trực cảm, tinh nhạy và quyết liệt ở họ đã mở ra những cách tiếp cận nghệ thuật bất ngờ và giàu sức sống cho đến tận bây giờ.

  • Sau nhiều thập niên tồn tại vô danh, La Bella Principessa đang trải nhiều công đoạn đánh giá phức tạp nhằm xác định liệu nó là tác phẩm mất tích của Leonardo da Vinci hay chỉ là kẻ mạo danh.

  • Vào những năm 1970, bức tranh sơn dầu (về sau được gọi tên là Bình văn) được tìm thấy trong ngôi nhà của một người dân ở phố Khâm Thiên, Hà Nội. Bức tranh được cho là do Lê Văn Miến (Lê Huy Miến), họa sĩ Tây học đầu tiên người VN, vẽ nên nhưng một số phát hiện vừa qua lại dấy lên giả thiết mới.

  • Tôi quen với họa sĩ trẻ Nguyễn Văn Hè từ những năm anh còn là sinh viên trường Đại học Nghệ thuật Huế. Cà phê vỉa hè ở đường Phạm Hồng Thái là nơi chúng tôi thường gặp gỡ chuyện trò vào những chiều cuối tuần. Hè có một đời sống nội tâm hết sức mạnh mẽ nhưng ứng xử vô cùng nhẹ nhàng và kín đáo.