Với Lê Anh Hoài, trải nghiệm nghệ thuật có thể diễn ra ở bất cứ phương tiện, vật liệu nào, miễn sao biểu đạt được ý tưởng của người nghệ sĩ. Tất nhiên, điều này không đồng nghĩa với tùy tiện, tùy hứng. Lê Anh Hoài thuộc số các nghệ sĩ cực kỳ lý tính và kiên định. Anh không sáng tác để làm vừa lòng công chúng, càng không phải để thông qua kiểm duyệt hay những mục tiêu dân dụng khác. Anh vượt lên để tự do. Tôi cho điều quan trọng nhất làm thành bản sắc Lê Anh Hoài là một thái độ nhất quán với nghệ thuật: nghệ thuật cần phải mới. Và như thế, trên hành trình sáng tạo với đủ thứ bứt phá lạ lùng, mạo hiểm, Lê Anh Hoài đã trở thành một nhân vật đương đại của văn học.
Ai nấy đều biết, giữa sáng tạo cái mới và tâm thế tiếp nhận của công chúng đương thời luôn có một quãng cách, đôi khi là một hố sâu. Điều này thậm chí xảy ra ngay trong chính giới cầm bút. Đây hoàn toàn không phải vấn đề thứ hạng, mà là quan niệm, là sự khác nhau. Thế là, khi mọi người còn đang lẩn quẩn với câu hỏi: “Thế mà là nghệ thuật ư?”, thì Lê Anh Hoài đã đi một quãng đường xa, với đủ thứ lạ lùng, kỳ dị (ít nhất là trong bối cảnh nghệ thuật Việt Nam đương đại). Có thể nói, Lê Anh Hoài là một trong số ít các nhà văn giải phóng triệt để nghệ thuật khỏi tính chức năng, nhấn mạnh tính trò chơi của nó. Xét cả trên bình diện tâm thức và kỹ thuật, Lê Anh Hoài là một nhà văn hậu hiện đại theo đúng nghĩa. Anh không có bước chuyển, mà thuộc về hệ thức này ngay khi cầm bút. Tôi nói điều này không có ý gán cho Lê Anh Hoài một danh xưng “à la mode”, bởi hậu hiện đại là thuật ngữ mà giới nghiên cứu văn học Việt Nam dùng đã trở nên quen từ hàng chục năm qua. Thời điểm này, có lẽ nó đã trở thành một “câu chuyện khảo cổ”.
Lê Anh Hoài truyện ngắn
Truyện ngắn Lê Anh Hoài không nhằm “kể chuyện” mà chủ yếu “biểu đạt”. Do thế, nó không chạy theo cốt truyện tuyến tính hay sự kiện truyền thống. Đọc truyện ngắn Lê Anh Hoài, thấy anh không gia công bối cảnh hay khai thác chiều hướng đường đời nhân vật mà tập trung tái tạo hình hài cho những trạng thái, trạng huống, suy tư. Nhân vật dường như chỉ là những cái bóng, những ký hiệu để các ý tưởng trú ngụ. Cốt truyện và dung lượng truyện ngắn Lê Anh Hoài rất phóng túng. Anh thường khai thác những chi tiết, những chuyện vụn vặt, thậm chí “ba xàm” như bộ râu, đám ma nơ canh, bản thảo bị quên lãng, trái tim trong WC, linga hạ nhục… qua đó dựng nên một thế giới vừa u ám vừa nực cười, vừa bất ổn vừa tất yếu theo một cách phi lý nhất.
Đọc Lê Anh Hoài, thấy điểm nổi bật nhất trong truyện ngắn của anh là sự u ám pha chất trào tiếu và bỡn cợt, tạo nên lối “u mua - đen” đặc thù. Lê Anh Hoài không “phản kháng” hiện cảnh bằng phẫn nộ, mà “cười cợt để sống chung cùng nó”, với tâm trạng “đành vậy thôi”. Lê Anh Hoài cũng thuộc số rất ít các nhà văn giữ được tâm thế bỡn cợt và chơi giỡn xuyên suốt các sáng tác của mình.
Về thi pháp, truyện ngắn Lê Anh Hoài thoát hoàn toàn khỏi mô hình phản ánh, tuy nhiên điều này không mâu thuẫn với việc nó thể hiện rất sâu một tâm thức, hay một nội dung xã hội đặc thù. Trước hết, tinh thần giễu nhại, bỡn cợt, tự nó đã bao hàm một thái độ giải thiêng. Chẳng hạn, Huy chương là sự giải thiêng những thứ bấy lâu được cho là thiêng, con đường tha hóa của một công chức (như bao người), được trình hiện không theo lối bi kịch hóa mà bằng một cái nhún vai trào lộng. Trong Chinh phục, công việc kỳ khu hàng ngày của một viên chức “gộc” là theo dõi nữ đối tượng tình ái của mình, từ đó phát hiện ra quy luật sinh học, như tần suất đi tiểu hay chu kỳ kinh nguyệt, số trứng rụng của cô, đại loại thế. Cuối cùng, anh lấy cô. Câu chuyện xàm xí, “tào lao bí đao” nhưng ẩn chứa bên trong một đời sống đương đại vô cảm, vô nghĩa, vô hồn.
Truyện ngắn Lê Anh Hoài không có đường biên rõ ràng giữa người và vật, giữa vật thật và vật giả, bởi tất cả đều nằm trong thế giới đặc thù - thế giới trò diễn. Trong Trinh nữ ma-nơ-canh, những “con canh” trở thành nhân vật trung tâm, thay thế con người suy tư về xã hội. Việc đổi điểm nhìn mang tính chất như một sự lạ hóa. Ở đây, đồ vật được nhân hóa, còn con người bị vật hóa. Trái tim trong WC lại là một ẩn dụ: tình yêu, cái đẹp bị bào mòn bởi cái tục tĩu, bẩn thỉu. Tương tự với thế giới phi lý trong Trinh nữ ma-nơ-canh, Cuộc đời khốn nạn của một bản thảo là sự khước từ những thể cách văn học đương thời đã vắt kiệt nghĩa, kiểu những chuyện giật gân, những chuyện diễm tình… Khi các bản thảo lên tiếng cũng là lúc câu chuyện văn chương bắt đầu: nhà văn và quá trình sáng tác, cái chết của tác giả, vấn đề danh hiệu nhà văn, cách đối xử với văn chương, sự rởm hợm của thế giới văn nghệ, sứ mệnh của văn chương… Ở đây, Lê Anh Hoài giễu nhại chính văn chương, phản kháng những công thức nhàm chán của văn chương truyền thống. Trong Cuộc đời khốn nạn của một bản thảo, nhà văn, tác phẩm, xuất bản trở thành bộ ba nhân vật của “trò chơi” văn chương đầy châm biếm. Câu hỏi đặt ra là, người ta sáng tác văn học để làm gì, vì cái gì, văn học liệu có thể sống sót trong một đời sống hỗn mang, nơi các thang bậc giá trị hoàn toàn bị đảo lộn.
Thế giới trong truyện ngắn Lê Anh Hoài không còn tính hiện thực, trở thành thế giới của ý niệm và diễn ngôn. Có cảm giác, mỗi truyện ngắn Lê Anh Hoài là một truyện ngụ ngôn, một ẩn dụ. Chẳng hạn, bộ râu tượng trưng cho lớp vỏ bọc người ta tạo ra để che đậy, bảo vệ bản thân hoặc để đáp ứng sự mong đợi về một “điều gì đó” của xã hội. Người ta quen với bộ râu giống như quen với thế giới của những vật giả. Nó vốn như một thứ vật ngoại thân, nhưng lại trở thành sự hiện diện có nghĩa, bởi khi không đeo cái vật giả ấy, chủ nhân chẳng còn gì (Bộ râu).
Lại có thể xem Công ty khai thác và phát triển ngôn ngữ là một truyện kiểu tiếu lâm, mang màu sắc giai thoại. Tác phẩm giễu nhại sự phi lý của xã hội mà ở đó hễ ai đó nói ra điều gì đều phải trả tiền. Ở đây có vấn đề bao cấp phát ngôn, độc quyền phát ngôn, tài trợ cho các khoản phát ngôn (chẳng hạn như miễn phí phát ngôn cho quan chức). Công ty khai thác và phát triển ngôn ngữ hàm chứa những ẩn dụ về văn chương, tự do sáng tạo, văn sĩ độc lập, văn sĩ quốc doanh…
Có thể nhận thấy, Lê Anh Hoài luôn viết trong trạng thái tỉnh táo và phản tỉnh, ngay cả khi anh chủ ý thiết tạo thế giới văn chương như một trò diễn. Truyện ngắn Lê Anh Hoài thường đặt nghệ thuật vào câu chuyện trung tâm, nghệ sĩ là kẻ mộng tưởng, vừa khát khao vừa bế tắc, vừa sáng tạo vừa giả tạo. Trong Nỗi sợ và những khuôn hình, mỗi truyện có một khung riêng, phản chiếu những ý niệm khác nhau về thân phận nghệ sĩ và vai trò của nghệ thuật trong xã hội.
Thế giới Nỗi sợ và những khuôn hình đây đó cũng biểu đạt về hiện cảnh đời sống, lịch sử và đôi chút nỗi niềm nhân tâm thế sự nhưng trên hết và nổi bật hơn cả đó là những câu chuyện về nghệ thuật được thể hiện trong một “câu truyện nghệ thuật”. Bằng bút pháp trào lộng và thủ pháp nhại, giễu nhại đặc trưng, Lê Anh Hoài đã trình hiện một thế giới độc đáo, đặc dị của nghệ sĩ, của nghệ thuật với những phức cảm đa chiều: khát khao và mộng tưởng, ám ảnh và bế tắc, sự vùng vẫy cô độc trong các ý tưởng sáng tạo và cả những trò vè lố bịch, sự nhếch nhác, rởm hợm của nghệ sĩ, sự giả hiệu của cái gọi là sáng tạo và trình diễn nghệ thuật. Anh cũng đặt ra các vấn đề chung về nhận thức nghệ thuật, cảm thụ nghệ thuật, đám đông với nghệ thuật...
Như đã nói, truyện ngắn Lê Anh Hoài không chú trọng vào tính “chuyện” hay sự kiện, mà giống như một ý niệm, nghiêng về biểu đạt hơn là mô tả. Lê Anh Hoài có lối viết tỉnh táo, thông minh, ngay cả khi tác giả thâm nhập rất sâu vào những mê lú của nghệ thuật và nghệ sĩ bằng bút pháp kỳ ảo và sự trùng điệp của siêu hư cấu. Nhân vật phản tỉnh ở đây chính là người trần thuật, nhưng thường là một người trần thuật uể oải chán chường.
Điều độc đáo là, truyện nào của Lê Anh Hoài cũng ẩn chứa một nụ cười. Ngay khi diễn tả cái chán chường uể oải, sự tuyệt vọng cùng cực thì giọng điệu chủ đạo vẫn là trào lộng, bỡn cợt, cho dù đây đó có phảng phất một chút cay đắng, xót xa.
Có thể xem truyện ngắn của Lê Anh Hoài là một thể nghiệm mới mẻ, đầy lý tính và tinh thần phản tỉnh về nghệ thuật của một nghệ sĩ luôn đầy ắp ý tưởng sáng tạo và rất nhiều khi bị mắc kẹt giữa chúng.
Lê Anh Hoài tiểu thuyết
Cùng với truyện ngắn, tiểu thuyết Lê Anh Hoài thể hiện một kiểu tư duy nghệ thuật độc đáo. Chuyện tình mùa tạp kỹ (2007) gồm 49 hồi, mỗi hồi mở đầu và kết thúc bằng hai câu thơ, tạo nên một cấu trúc chương hồi cổ điển, bản chất là nhại chương hồi (“Giáo sư về hưu soạn bí kíp làm tình/ Giải quyết nhà đất, tìm ra cách thẩm định phụ nữ”; “Đại họa sư sợ chính tranh của mình/ Tiềm ẩn nguy cơ thất truyền giống đực”)… Chuyện tình mùa tạp kỹ gắn với các đoạn văn, mẩu thơ, nhật ký, tin báo, phiếm luận, bình luận đan xen, thể hiện sự phân rã cảm xúc và sự hỗn độn của đời sống đô thị đương đại. Tác giả không ngần ngại mời gọi: “Trong cuốn sách này, có những khoảng trắng (trống), bạn có thể viết, vẽ, cắt dán… tùy tâm (thích, thú, sướng). Có thể điều đó làm cuốn sách của bạn đẹp hoặc hay hơn. Tôi mong điều đó”. Kết thúc tiểu thuyết là một vở “bi - hài kịch nhân gian” 14 lớp mang tên Tìn êu. Ở đó, “các diễn viên phải giữ được tâm thế diễn pha trộn hai khuynh hướng chính: nghiêm túc như Nhà hát Tuổi trẻ diễn kịch Lưu Quang Vũ và ủy mị, chua xót theo kiểu cải lương Lan và Điệp trước 1975”. Chuyện tình mùa tạp kỹ sử dụng thuần toàn giọng văn “không nghiêm túc”, chính xác hơn là bỡn cợt, giễu nhại để thiết dựng câu chuyện đời sống, xã hội, yêu đương, tình dục rất đỗi “tào lao” của tầng lớp trí thức trung lưu, kiểu: “GS Lương đang biên soạn một cuốn sách chứa đầy các bí quyết làm tình chữa bệnh dưỡng sinh”. Kể chuyện bằng “tạp kỹ”, Lê Anh Hoài sử dụng những câu chuyện tình vụn vặt, những nhân vật lạc lõng và kiểu ngôn ngữ cà chớn nhằm tạo nên một bức tranh xã hội vừa vụn vỡ, vừa “phong nhũ phì đồn”. Tác phẩm thể hiện rõ tinh thần hậu hiện đại qua việc phá vỡ các quy phạm thẩm mỹ truyền thống, kết cấu phân mảnh, phi tuyến tính. Tác giả không cung cấp một cốt truyện rõ ràng mà để người đọc tự kết nối và chắp vá các mảnh vụn của câu chuyện, tạo nên một trải nghiệm đọc độc đáo và đương nhiên, nhiều thách thức.
Vườn thượng uyển (2021) của Lê Anh Hoài là một tiểu thuyết giễu nhại toàn triệt với 227 trang, 60 phân đoạn dài ngắn khác nhau. Theo một nghĩa nào đó, các phân đoạn này có thể được tách ra/tháo rời để xuất bản như những truyện ngắn độc lập (thực tế 3 trong số chúng đã được in riêng trong tập Nỗi sợ và những khuôn hình). Tuy nhiên, nhìn tổng thể, Vườn thượng uyển không phải một cuốn sách lắp ghép tùy hứng, mà có cấu trúc rõ ràng. Tính giễu nhại trong đây không chỉ là hình thức, mà trước hết, là một thái độ, hay nói đúng hơn, một kiểu bỡn cợt đặc thù. Khác với trong Chuyện tình mùa tạp kỹ, tập trung vào cái nhảm nhí của xã hội, Vườn thượng uyển lại tập trung vào câu chuyện nghệ thuật với tất cả sự nhảm nhí đến tận cùng của nó.
Trước hết là nghệ sĩ. Trong Vườn thượng uyển, nghệ sĩ chủ yếu hiện ra như những “con bệnh”, nhếch nhác, lố bịch, ba xàm. Nhà văn đôi khi, theo một cách châm biếm, đã vật hóa, thậm chí “cứt hóa” kiểu nhân vật này, trở thành những hình tượng mang tính ẩn dụ (“chó xồm”, “ngỗng cái”, “dê cái vú sệ”, “mèo xù lông tơi tả”, “chó mặt buồn”, “họa sỹ Cứt”…). “Thành phố nghệ thuật” là một ẩn dụ bi hài về những lạm phát nghệ thuật trên tất cả các khâu: sáng tác, biểu diễn, xuất bản, môi giới... Vườn thượng uyển giễu nhại thơ ca, tiểu thuyết, các thực hành, thử nghiệm nghệ thuật, sáng tác và kiểm duyệt, danh hiệu nghệ sĩ, hội đoàn (“cuồng quốc thơ”, “chỉ tiêu sáng tác”, “giải thưởng thiếu i-ốt”, “Nghi lễ hóa thơ dâng thánh của Hội thơ Vĩnh Cửu”, trình diễn thơ, thả thơ…). Dưới cái nhìn đậm chất trào lộng, sắc sảo và tinh quái (của một kẻ thạo nghề, ưa bóc mẽ), nghệ thuật và nghệ sĩ hiện ra với tất cả sự tầm thường, nhố nhăng và quái đản của nó.
Nhưng tác giả Vườn thượng uyển không đứng ngoài để giễu nhại, mà còn viết trong tâm thế tự nhại, tự trào (trên một ý nghĩa nào đó, có thể xem Hàm như một hóa thân của nhà văn). Với cách thể đó, Lê Anh Hoài biến Vườn thượng uyển trở thành một thế giới chơi giỡn/thế giới của sự chơi (thử tưởng tượng, nếu chỉ có một chút hằn học thôi, tác phẩm sẽ gây phẫn nộ hoặc đụng chạm biết chừng nào). Tuy nhiên, trong sáng tác của Lê Anh Hoài, đằng sau tiếng cười luôn là một suy tư đích đáng về nghệ thuật. Trong những “khuôn hình” và “cái kén”, người nghệ sĩ chân chính luôn vẫy vùng và dường như mắc kẹt trong các ý tưởng sáng tạo. Nếu có đục kén chui ra thì anh ta cũng không vượt thoát được bởi chính những giới hạn của mình.
Lê Anh Hoài thơ
Thơ Lê Anh Hoài xa lạ với cấu trúc truyền thống về vần luật, nhịp điệu hay đặc tính trữ tình. Thay vào đó, những bài thơ của anh giống như một chuỗi liên tưởng ngẫu hứng, giễu nhại, cắt dán và pha trộn thể loại. Một bài thơ có thể giống như bản ghi chép, nhật ký, đối thoại, thậm chí mang hình thức thị giác như thơ trình diễn, sắp đặt.
Mảnh mảnh mảnh (2012) của Lê Anh Hoài là một tác phẩm đậm chất thử nghiệm theo tinh thần hậu hiện đại, nổi bật với phong cách đa ngữ, ấn tượng thị giác và những ý tưởng độc đáo. Nếu văn hóa là hệ thống ký hiệu thì ngôn ngữ là hệ thống ký hiệu quan trọng nhất của văn hóa. Ý thức về điều đó, Lê Anh Hoài chọn 5 dạng ngôn ngữ: tiếng Kinh và chuyển ngữ sang ngôn ngữ các dân tộc thiểu số: Khmer, K’Ho, Lô Lô và chữ Nôm, mục đích là để tôn vinh ngôn ngữ ngoại vi. Anh lý giải, “mọi thứ ngôn ngữ vốn đều bình đẳng, vậy tại sao không tìm đến những cộng đồng gần mình nhất?”.
Mảnh mảnh mảnh được thiết kế/sắp đặt theo kiểu tác phẩm thị giác: bìa đen trắng nổi bật, bố cục công phu, sự hòa trộn các phông chữ khác nhau thành hình khối độc đáo. Dưới bề ngoài giống như một trò chơi, Mảnh mảnh mảnh lại thể hiện một thái độ nghiêm túc của tác giả: sự trân trọng con chữ, trân trọng văn hóa bản địa, cái ngoại vi, bên lề, yếu thế. Tác giả chia sẻ, với số lượng 16 bài thơ và trong một năm, chỉ bán được một cuốn duy nhất, đó là một kết quả rất tệ, song anh quyết tâm “vô vọng nhưng vẫn lội ngược dòng”.
Về thơ, phần độc đáo và gây sự nhất của Lê Anh Hoài, có lẽ (theo cách gọi của anh) là “thơ ghi chép”. Ghi chép là viết lại, chép lại những điều mình nhìn thấy, nghe thấy. Thơ ghi chép được hiểu là kiểu thơ mang tính tường trình, tường thuật trực tiếp những khoảnh khắc, phân đoạn, hiện tượng, vấn đề của đời sống. Ở đây, thay vì trữ tình, Lê Anh Hoài “bắt quả tang” hiện cảnh đương đại ở phần thô nhám, mang tính thời sự nhất, rồi ghi lại như một bản “hồ sơ” hay “biên bản” (nhưng không có kết luận) về xã hội và con người: “em phấn đấu thành người cần thiết trong một hệ thống chữ nghĩa vừa trở thành không cần thiết/ ta giảm biên nhà chùa/ sáp nhập đền đài/ tinh giản hòm công đức/ dòng tiền/ anh cờ tướng/ em cờ vây/ chấp gì cờ vua lây nhây/ cái chết/ kết trái/ nặc nô đòi nợ duyệt sách dạy đời/ quản đốc xưởng may duyệt bài in báo/ thi nhân tiếc lúc vào đời không học ngân hàng” (Ghi chép cuối xuân 174).
Bởi tập trung vào những hiện cảnh u ám, thơ ghi chép của Lê Anh Hoài thường gợi ra cho bạn đọc cảm giác tuyệt vọng, chán chường nhưng cũng từ đó bắt người ta phải liên hệ, truy vấn. Sự thiếu hụt tính chất trữ tình được bù lại bằng thái độ tỉnh táo, trạng huống thưởng thức được thay bằng quan sát, phản biện, suy tư: “trong một thế giới thuần túy giao dịch/ những khẩu phần cảm xúc đông lạnh/ những tin tức có thể làm thối não/ những miệng cười đầu độc từ điểm chốt thần kinh/ đi ra chỗ nào đi vào chỗ ấy/ phượng hoàng ba cánh bay ra từ trong căn phòng cũ nát (…) rồi cũng tàn ngày hân hoan rừng rực đỏ/ trở lại ngày lo lắng tre xanh/ ta làm chủ/ em làm trụ/ con đường/ cương đòn/ kịch tính/ kích tình/ em đẹp như một bài bình giảng/ do trí tuệ nhân tạo làm ra” (Ghi chép đầu hạ 175).
Ngôn ngữ và giọng điệu thơ ghi chép của Lê Anh Hoài mang tính đối thoại/ đối chọi cao, thông tục, tối giản, trần trụi, đôi khi mang tính cà chớn và gây sự, rất gần ngôn ngữ văn xuôi: “như một ngày đầu đông/ ghé về thăm ngày lập hạ/ nàng bân mải miết đan nốt chiếc quần lót cho chồng/ đi tiếp cuộc trường diễn mãi võ nước sông/ ta khóc cho những thành phố lưu vong/ thoát xác/ phân ly/ giải ngã chính mình… em về đầu ngõ/ tự hào/ ta về cuối xóm/tự tr/chào rồi/ câm/ ta/ mối nguy hiểm cho cuộc tình/ đã chết/ trước khi em đọc lệnh khởi tố” (Ghi chép đầu hạ 176).
Lê Anh Hoài sáng tác đa dạng trên nhiều lĩnh vực: truyện ngắn, tiểu thuyết, làm thơ, vẽ tranh, trình diễn nghệ thuật. Ở lĩnh vực nào, anh cũng thể hiện sự phá cách hòng vượt ra khỏi những đường biên, những giới hạn để đến với chân trời tự do. Sáng tác của Lê Anh Hoài giàu tính thể nghiệm, tính trò chơi nhưng không ngừng truy vấn nghiêm túc về các vấn đề xã hội, con người, về quan hệ cá nhân và cộng đồng, quốc tế và bản địa, trung tâm và ngoại vi. Có thể nói, Lê Anh Hoài là nghệ sĩ đa năng và giàu sáng tạo bậc nhất trong đời sống văn nghệ Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Ở lĩnh vực nào, Lê Anh Hoài cũng mang dấu ấn và thành tựu của một nghệ sĩ tiên phong.
P.G.T
(TCSH438/08-2025)
PHẠM XUÂN DŨNG
(Nhân đọc tập thơ “Hóa vàng đi Tường” của Phạm Nguyên Tường, Nxb. Thuận Hóa, 2021)
HỒ THẾ HÀ
Nguyễn Vỹ (1912 - 1971) là một tác giả/ hiện tượng văn chương, báo chí và văn hóa ở Việt Nam đầy ấn tượng của thời hiện đại, nhưng trước tiên, ông được biết đến với tư cách một nhà thơ từ thuở Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam (1942).
TÔN THẤT DUNG
Nghe tin nhà văn, nhà thơ Trần Hữu Lục qua đời, không hiểu sao trong tâm tưởng tôi dường như có ai đọc những câu ca từ trong bài Có một dòng sông đã qua đời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn!
LÊ THỊ ĐỨC HẠNH
Mộng Sơn là một trong số hiếm hoi những nhà văn nữ xuất hiện từ trước Cách mạng tháng Tám, sau này vẫn tiếp tục bền bỉ đóng góp cho nền văn học mới bằng những tác phẩm vừa phải, khiêm tốn, biểu lộ một tình cảm chân thành, một tấm lòng nhân ái.
NGUYỄN THANH TRUYỀN
Ấn tượng của tôi về Nguyên Hào bắt đầu từ một đêm thơ gần 20 năm trước. Lần đầu tiên đọc thơ trước đám đông, dáng vẻ vừa bối rối vừa tự tin, anh diễn giải và đọc bài “Rượu thuốc”: “Ngâm ly rượu trong/ Thành ly rượu đục/ Đắng tan vào lòng/ Ngọt trong lời chúc”.
PHẠM XUÂN DŨNG
(Đọc tập sách “Bên sông Ô Lâu” của tác giả Phi Tân, Nxb. Lao Động, 2021)
PHẠM PHÚ PHONG
Nguyên Du là sinh viên khóa 5 (1981 - 1985) khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay là Đại học Khoa học).
PHONG LÊ
Thanh Tịnh (12/12/1911 - 17/7/1988), trước hết là một nhà Thơ mới, tác giả tập thơ Hận chiến trường (1936) với hai bài Mòn mỏi và Tơ trời với tơ lòng được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam cùng với lời bình.
LÊ HỒ QUANG
Dưới “áp lực” của tiêu đề, khi đọc Thỏa thuận, gần như ngay lập tức, trong óc tôi nảy sinh hàng loạt câu hỏi: Thỏa thuận nói về cái gì?
VÕ QUÊ
Từ trước đến nay chúng tôi chỉ được đọc và trân quý thơ văn của nhà thơ Lê Quốc Hán qua những bài viết đăng trên các tạp chí, trên mạng thông tin, báo điện tử mà chưa được trực tiếp cầm trên tay một cuốn sách nào của ông.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Phùng Quán & Tôi” của Xuân Đài, Nxb. Phụ nữ Việt Nam, 2020)
HỒ THẾ HÀ
Hồng Nhu xuất phát nghiệp bút của mình bằng văn xuôi. Văn xuôi gắn bó với đời như một duyên mệnh.
YẾN THANH
Rất nhiều nhà văn thành danh hiện nay, sau những thành công trên trường văn trận bút, đột nhiên họ làm bạn đọc bất ngờ bằng cách chuyển hướng sang viết cho thiếu nhi, như trường hợp của Nguyễn Lãm Thắng, Nguyễn Đình Tú, Phong Điệp, Dương Thụy, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Đỗ Bích Thúy…
ĐỖ THU THỦY
1.
Trường ca Ngang qua bình minh là ấn phẩm thứ ba của nhà thơ Lữ Mai, sau hai tập tản văn và ký sự: Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi viết về đề tài biển đảo.
NGƯỜI THỰC HIỆN:
Lê Thị Mây là một cô gái cực kỳ ít nói. Nhà thơ chi thích lặng lẽ nhìn, lặng lẽ nghe, lặng lẽ suy ngẫm... Và nếu như phải nói gì trước đám đông thì đó là một "cực hình" - Kể cả đọc thơ mình - Mây vẫn như vậy.
NGUYỄN THỊ LIÊN TÂM
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Quang Dũng (1921 - 1988).
LÊ NGUYỄN LƯU
Trong nền văn học đời Đường, thơ ca có một vị trí đặc biệt, trội hơn cả phú đời Hán, từ đời Tống, khúc đời Minh...
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Miền quê thơ ấu” - Hồi ký của Thanh Tùng, Nxb. Thuận Hóa, 2020)
VÕ QUÊ
Cố đô Huế - Dấu ấn thời gian” là công trình nghiên cứu thứ ba của nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh do Nhà xuất bản Đại học Huế cấp giấy phép, tiếp theo 2 ấn bản “Dấu tích văn hóa thời Nguyễn” (in năm 1996 và 2 lần tái bản có bổ sung năm 1998, 2000); “Giữ hồn cho Huế” (2006).