Ký ức tím

08:22 16/12/2011
PHAN THỊ THU QUỲ Ba tôi - liệt sĩ Phan Tấn Huyên, Nguyên Chánh Văn phòng Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Thừa Thiên - thường dặn tôi mấy điều: dù khó khăn đến mấy cũng không được ngừng nghỉ phấn đấu học hành bởi tri thức là sức mạnh; dù như thế nào đi nữa cũng phải giữ cho được bản sắc văn hóa Huế rất đỗi tự hào của mình...

Dược sĩ Phan Thị Thu Quỳ - Ảnh: donghuongtth.com

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Mỗi lần đi qua những đồi sim, những đồi mua biền biệt ngút ngàn sắc tím lan dài đến cuối chân trời, tôi lại tìm cách đứng lại giữa núi đồi lộng gió, thấy dậy lên trong lòng nỗi nhớ ba. Từ bao giờ không biết nữa, nỗi nhớ ba luôn gắn với màu tím Huế miên man như thế.

Học xong Quốc Học, ba tôi được tuyển vào Kinh làm Hàn lâm viện biên tu. Quan Toàn quyền Pháp một hôm có việc vô Hoàng Thành trình tấu, gặp ba tôi đang phiên dịch giúp nhà vua, đã rất ngạc nhiên: - “Sao ở đây lại có người nói tiếng Pháp hay hơn cả người Pháp!”. Vậy là ngay lập tức ba tôi thuyên chuyển qua làm việc tại Tòa Khâm sứ Pháp ở Huế. Một thời gian sau, ba tôi bị nghi ngờ hoạt động chính trị nên đổi qua làm ở Kho Bạc Huế. Ở đó cũng không lâu, ba và cả nhóm bị nghi ngờ nên Pháp tách cả nhóm mỗi người mỗi ngả, ba bị đổi vô Tòa sứ Đà Lạt. Cách mạng Tháng Tám thành công, ba công khai hoạt động trong Ủy ban Cách mạng lâm thời Đà Lạt. Sau đó ba đưa gia đình về Huế, bỏ hết gia tài, cuộc sống sung túc của công chức Pháp để vào Việt Minh tỉnh Thừa Thiên, cùng bạn bè xây dựng Nha Bình dân Học vụ Trung Bộ tại Huế.

Cuối năm 1946, Pháp tái chiếm Huế. Ba tôi theo các bác Việt Minh Thừa Thiên rút ra Liên khu Bốn, ba được bầu làm Ủy viên Thường vụ Ủy ban Kháng chiến Toàn quốc Liên khu Bốn tại Nghệ An. Ba đi làm cách
mạng, để vợ và các con ở lại Huế cơ cực đủ đường. Vừa từ giã cuộc sống của gia đình công chức Tây học dư thừa vật chất ở Đà Lạt, bây giờ mạ và mấy đứa con chúng tôi lại phải vừa chịu nhiều cảnh thiếu đói ở Huế, vừa bị Pháp lùng riết. Phải đến ba năm sau, ba mới gửi thư về, trong đó dặn tôi: “Con cố gắng giúp đỡ các anh công an hoạt động Nội Thành làm nhiệm vụ, họ là người tốt và cùng lý tưởng với ba. Con giúp họ tức là con đã cùng lý tưởng với ba rồi”. Tôi nghe lời ba tham gia cách mạng như thế đó.

Mạ bố trí đội Công an làm trụ sở liên lạc ở nhà trên, còn chúng tôi ở nhà dưới. Lúc đó tôi mới 14 tuổi đã bỏ học 3 năm, đành bằng lòng với cái bằng tiểu học của mình. Tôi tận tụy với công tác do đội Công an tình báo Nội thành giao, rất phấn khởi khi được đi theo một hướng cùng ba. Với sự dìu dắt nhẹ nhàng, tinh tế, ba giúp tôi đến với kháng chiến, bước vào hàng ngũ của Đảng từ rất sớm, trở thành một cán bộ trẻ nơi quê hương.

Thế nhưng, ba tôi vẫn chưa hài lòng, ba thường gửi thư về thuyết phục tôi phải trở lại trường học văn hóa trong khi tôi rất ngại ngùng, lo âu vì đã lớn mà sẽ học với con nít. Nhưng ba là một tri thức cách mạng học cao biết rộng, lo cho tương lai, nên bằng mệnh lệnh từ trái tim của người cha thương con vô bờ bến, ba buộc tôi phải vâng lời. Khu ủy kêu gọi trở về tăng cường cho Thừa Thiên nên ba tình nguyện về tỉnh nhà rồi công tác tại UBHCKC tỉnh Thừa Thiên ở chiến khu Dương Hòa. Ba lặn lội về nơi tôi công tác. Ba gặp những người là thủ trưởng của tôi để họ cùng đồng tình với ba. Rồi ba đón tôi lên chiến khu chờ có đoàn cán bộ công an và bộ đội ra Liên khu Bốn, thì gởi tôi đi cùng để trở lại trường học văn hóa.

Đường lên chiến khu um tùm cây cối. Tôi ngỡ ngàng nhìn thấy phía Tây đồi núi quê hương có những đồi sim tím rực rỡ. Tôi chạy nhảy từ lùm sim này đến lùm sim khác để hái hoa sim tím cài vào ba lô và hái trái sim đầy một túi. Tôi ngây ngất với cảnh lạ. Ở đây như một vườn hoa sim tím khổng lồ và từ đó, ấn tượng những đồi sim bao bọc xung quanh chiến khu Dương Hòa cứ lắng đọng trong ký ức tôi mãi.

Ở chiến khu, chiều chiều ra khỏi nhà xuống suối thì vây quanh bao nhiêu hoa rừng xanh đỏ tím vàng rực rỡ, nhưng tôi vẫn tìm hoa sim tím đem về trang trí trong nhà. Thế rồi ngày lên đường đã đến, tôi từ giã chiến khu và người cha tuyệt vời để ra đi. Trèo đèo lội suối, vượt núi rừng Trường Sơn, tôi lại gặp những đồi sim tím ở Quảng Trị, Quảng Bình. Nhìn những đồi sim tôi chợt nhớ ánh mắt và lời dặn khi ba tiễn tôi lên đường: “Con ơi, đi học cũng phải dũng cảm!”. Đến Nghệ An tôi vô học trường cấp ba Huỳnh Thúc Kháng tại xã Bạch Ngọc. Đó là một xã ven núi đồi của huyện Đô Lương. Một mình trơ trọi xa cha mẹ, tôi nhớ lời ba: “Khó khăn mấy con cũng phải bám trường...”. Học sinh của Bình Trị Thiên ra học thì học bổng một tháng chỉ có 10 kg lúa, ngày nghỉ phải lên núi hái củi, hoặc mót khoai, sắn, đậu, để cho đủ sống. Tôi lại gặp những đồi sim tím của xứ Nghệ khiến tôi nhớ đồi sim quê mình da diết.

Làm sao tôi có thể quên được ngày ba tôi hy sinh ở chiến khu Dương Hòa sau trận càn của giặc Pháp lên chiến khu. Cơ quan đầu não của tỉnh phải rút vô rừng sâu để bảo toàn lực lượng. Tin từ Ủy ban tỉnh Thừa Thiên ở Dương Hòa gửi ra Nghệ An cho tôi như sét đánh. Tôi đau đớn đành đoạn, tôi thương tiếc ba, tôi căm thù giặc... Tôi đổ ra ốm liệt giường đến độ mất trí nhớ. Lúc ấy, chỉ những đồi sim tím ám ảnh là còn nằm lại sâu trong khe kẽ ký ức, khiến tôi còn bấu víu về sự nhớ trên thế gian...

Tôi thi vô trường đại học Dược nằm ở Thanh Hóa. Làng Hội Cù thuộc huyện Nông Cống có một vùng núi đá cạnh trường, đất sỏi cát, suối nước trong veo, bên bờ suối nhỏ có những bụi sim tím to lớn, nở hoa đầy… Chiều chiều ra suối, tôi ngắt hoa sim cắm vào khe đá ngồi tưởng niệm ba đang nằm ở hòn núi xa vời phía Tây quê mẹ. Nhìn về phía Nam, lòng tôi quặn đau khôn tả. Tôi nhớ những quả đồi phủ đầy bông sim tím của quê hương, vấn vương mà nghĩ đến ba đã không còn.

Kháng chiến ròng rã 30 năm thì hết 25 năm tôi xa quê đi học và công tác, trải qua những nẻo đường xa xôi hẻo lánh ở Bình Trị Thiên, Liên khu Bốn, Việt Bắc, Cao Bằng, Hà Nội... Thỉnh thoảng tôi bắt gặp đó đây những đồi núi đầy sim, những lúc ấy tôi nhớ ba, và cũng nhớ mạ da diết. Lúc tôi ở chiến khu Dương Hòa, mạ tôi gửi lên cho tôi một ba lô áo quần để đi học. Trong đó có một áo dài lụa tím may rất công phu với màu tím Huế rất đẹp. Tôi rất quý cái áo lụa tím của mạ tiễn tôi ra đi. Suốt thời gian đi học, tôi gói ghém kỹ lưỡng chiếc áo ấy, thỉnh thoảng đem ra ngắm mà nhớ mạ. Tôi chỉ mặc vài lần khi đi biểu diễn văn nghệ ở trường. Suốt 25 năm xa mạ, nhìn áo lụa tím tôi nhớ ba điều mạ dạy: “Đói cho sạch rách cho thơm. Giấy rách còn lề. Giữ nề nếp gia phong”.

Lời dạy của ba, của mạ cứ văng vẳng nhắc nhở, khiến tôi vững vàng, sống trong sáng để cống hiến. Ra đi, mạ tặng áo lụa tím nhắn gửi tình thương bao la của mạ để mong chờ ngày con trở về trưởng thành. Và ngày tôi trở về cũng đã làm mạ hài lòng. Ngày miền Nam giải phóng, tôi về gặp mạ sau 25 năm xa cách nhớ nhung. Tôi rước mạ vô Sài Gòn ở với gia đình tôi để trị bệnh. Mạ lành bệnh thì ngay lập tức đi phố mua thưởng cho tôi một chiếc áo dài nhung màu tím Huế. Tôi để dành chiếc áo đó mặc trong dịp có ý nghĩa. Rồi dịp đó đã đến. Tôi vui sướng mặc áo dài nhung tím Huế của mạ tặng trong buổi lễ Nhà nước giao vốn cho các giám đốc “doanh nghiệp Nhà nước” bước sang thời kỳ hoạt động tự chủ. Được mặc áo nhung tím mạ cho trong buổi lễ trang nghiêm đó thật là một vinh dự lớn lao của đời làm cán bộ của tôi.

Màu tím của những đồi sim tím bao bọc mộ ba tôi và màu tím Huế của hai chiếc áo dài mạ tặng tôi ở hai thời kỳ khác nhau trong cuộc đời, có những kỷ niệm rất sâu sắc đối với tôi, nó cứ vương vấn trong ký ức tôi mãi không bao giờ quên được.

Suốt cuộc đời dọc theo đất nước trong cả hai cuộc kháng chiến, tôi đã qua hầu hết những dòng sông lịch sử từ sông Hương đến sông Lô, sông Hồng, sông Nhật Lệ, sông Lam, sông Lãng Giang, sông Thái Bình, sông Sài Gòn rồi trở về sông Hương. Tôi cũng qua rất nhiều núi đồi của đất nước: Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn... Mỗi dòng sông tôi qua, mỗi núi đồi tôi qua là một đoạn đời với bao kỷ niệm sâu sắc. Nhưng cái màu tím hoa sim ấy, trong đó có đồi sim vẫn còn bao bọc ngôi mộ ba tôi mãi mãi, với dòng chữ “Liệt sỹ Phan Tấn Huyên, nguyên Ủy viên thường vụ, Chánh văn phòng Ủy ban KCHC tỉnh Thừa Thiên hy sinh ngày 27 - 9 - 1951. Ngôi Mộ nầy gia đình để lại làm di tích chiến khu Dương Hòa”, luôn khiến tôi nao lòng nhớ đến.

Vâng, làm sao mà không nao lòng mỗi khi nhớ đến.

P.T.T.Q
(274/12-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách