Ký ức mùa nước lũ

15:05 03/09/2008
LÊ QUÝ LONGThông lệ cứ mỗi buổi sáng uống xong cốc càphê tôi đến mở phòng tranh. Ngày 1 tháng 11 năm 1999 chừng tám giờ sáng, ngoài đường nước đã lên phủ khắp mặt nhựa. Suốt đêm qua cho đến lúc này trời vẫn mưa to.

Tôi vẫn điềm nhiên ngồi sửa lại bức tranh vẽ còn dang dở. Chợt nhớ tới mẹ già ở quê nhà trong mưa gió bốn bề khó khăn. Nôn nao quá, tôi đóng cửa phòng, chạy mua ít mì cua dong thẳng về làng. Trước nhà mẹ tôi có con khe nhỏ, bấy giờ nước đã dâng cao ngập bờ. Trên tay ôm thùng mì cua, tôi xắn quần lội. Nước chảy quá mạnh, đôi chân mất thế thăng bằng, hai lần tôi không qua được. Tôi đành dừng lại, dõi mắt nhìn theo dòng nước chảy. Chừng mười phút sau có một cậu thanh niên ở cùng xóm đi đến. Tôi mừng quá. Hai chú cháu cầm tay nhau chặt, chân men theo dòng nước, dịch lần lần. Hồi lâu chúng tôi cũng qua được.
Mẹ tôi đang ngồi bên bếp lửa, hai tay đưa ra hơ, mắt nhìn hướng ra ngõ chừng như mong ngóng. Tôi bước vào cởi áo mưa ra, ngồi bên mẹ, để hộp mì cua xuống bên. Mẹ tôi nói: "Trời mưa gió, nước khe chảy riết như thế làm sao con về được? Đừng lo cho mẹ, ở đây mẹ có mua đồ ăn dự trữ rồi!". Mái tóc bạc phơ, màu vàng nâu của làn da nhăn nheo, đôi môi tím tái mẹ nói tiếng hơi yếu. Như để chế ngự cơn lạnh rét, ổn định tinh thần, mẹ ngước lên, sắc diện khác hẳn, tươi mươi hơn, thỉnh thoảng lại hé cười thanh thản. Tôi khươi bếp lửa ngẫm nghĩ: "Khi còn trẻ cho đến khi có chồng có con mẹ bộn bề công việc, tảo tần hôm sớm. Giờ tuổi già thế nầy, một mình bên bếp lửa với đôi mắt đăm chiêu... Con cái thì nhiều nhưng mỗi người một nơi, kẻ xa kẻ gần, tất bật với kế sinh nhai. Dâu con có trong nhà nhưng mẹ tôi một mực ăn riêng, không làm phiền ai. Mẹ không than phiền, không trách móc, lúc nào cũng một lòng cầu nguyện cho các con cháu sức khoẻ, ăn nên làm ra. Với tấm lòng nhân hậu vị tha như vậy nên mẹ được xóm làng thương mến, con cái yên tâm. Tôi thưa: "Mẹ, con lên! Sợ nước mỗi lúc một to, qua khe không được!" Ừ, thôi con lên với các cháu. Nhớ qua khe cẩn thận nghe! Nghe nói khi sáng có thằng gì bên xóm lội qua bị nước tống trôi vào bụi tre, may nhờ có người cứu không thì nó chết rồi!" "Con đợi năm ba người cùng dìu nhau qua mẹ ạ" "Rứa thì được! Con lên đi".
Ngoài trời mưa không dứt, mỗi lúc lại xối xả hơn. Trong lòng bồn chồn, làm sao qua khe được rồi còn phòng tranh nữa. Tôi nhặt một đùi tre cán dáo để bên đống rơm chống từ từ bước đi. Mẹ tôi nhìn cho đến khi tôi khuất cửa ngõ. Tôi mạnh dạn chống đùi lần lần đi. Nhưng thềm cống bắt qua con khe nhỏ đã tràn ngập nước, và chảy rất mạnh, tôi phải trở lại, không tài nào qua được, khó khăn hơn lúc đầu.
Châm điếu thuốc tôi hít một hơi dài rồi từ từ phì ra một cách băn khoăn, thì ở trên dốc xa có một nhóm 5 thanh niên đi lại. Hoá ra đều là người quen biết cả. "Chú yên tâm tụi con sẽ đưa chú qua!" Tôi mừng rỡ, rít tiếp hai hơi thuốc dài. Mười phút sau chúng tôi qua thoát. Áo quần ướt hết, cơn lạnh bắt đầu thâm nhập vào cơ thể. Tôi lấy gói thuốc ra phát hết cho các em, chào cám ơn và chạy về nhà thay quần áo, vác xe chạy lên phòng tranh. Qua khỏi cầu An Cựu, không chạy xe được nữa đành trở lại cất xe đi bộ. Đường nước chảy xiết không có một móng người. Làm sao mà đi, tôi thở dài bất lực... Ngày 3 tháng 11. Cơm nước xong cỡ chừng mười giờ sáng, Hai cha con rủ nhau tìm cách lên phòng tranh. Từ Nghẹo Giàng Xay lội ra cầu An Cựu lội tiếp đến ngã tư Hùng Vương, Nguyễn Huệ thì lội không được nữa vì nước đã ngập cổ, mấp mé vào miệng. Một chiếc ghe nhỏ bằng tôn có hai cậu thanh niên vạm vỡ ở tuổi chừng trên hai mươi. Họ cao to, nước da ngăm ngăm đen, từ từ lướt tới. "Bác cháu đi đâu tụi con đưa đi" - "Tốt quá, lên đến cửa hàng số một là bao nhiêu hai người". "Dạ năm mươi ngàn". Tôi đồng ý "Mời Bác lên ghe". Tôi vịn chiếc ghe cho thằng con trai lên trước. Hai cha con tôi ngồi giữa lòng, hai tay vịn thành ghe cẩn thận. Hai cậu thanh niên lực lưỡng người trước kẻ sau lội đẩy ghe đi. Tôi thấy yên tâm vì hai chàng trai to béo mạnh mẽ. Trên chiếc ghe con đầu mũi có một bịch mì cua của hai chàng thanh niên. Tôi không nói gì cả, thỉnh thoảng dùng chèo tay bơi giúp. "Dòng sông Hùng Vương" ào ào chảy xiết, "sông Bà Triệu" chảy qua "sông Nguyễn Huệ" nối tiếp, ngọn nước giữa bốn ngã tư xoáy khủng khiếp. Hai thanh niên bặm môi ghì chặt, lần chân bám đất tạo thế cân bằng đẩy ghe đi. Được một đoạn cỡ hai mươi mét ngọn nước đâm vào giữa lưng, ghe mất thế thăng bằng trôi trở lại. Hai chàng thanh niên bắt đầu có kinh nghiệm, đẩy ghe vào mé trong bờ lề tránh đầu ngọn nước. Gần một tiếng đồng hồ mà đi chưa đầy một trăm mét. Lòng tôi bồn chồn lo lắng cho số phận những bức tranh. Thỉnh thoảng tôi hỏi thằng con có lạnh không. Nó lắc đầu. Tôi yên tâm phụ lực tiếp sức cho ghe vượt lên. Gần hai giờ chiều, ghe mới vượt đến ngang nhà thờ Tam Kỳ Phổ Độ. Lại một ngã tư nước chảy mạnh và xoáy nữa. Con thuyền bé nhỏ lần này không ghì lại được. Cố gắng hết sức, qua khỏi ngã tư cậu thanh niên phía trước trượt chân, nước cuốn trôi ra xa rồi tấp vào hàng rào dây thép gai trước nhà thờ Tam Kỳ Phổ Độ. Không cựa quậy được, cậu ta nhô đầu lên khỏi mặt nước mũi thở phì phà. Lần lần, không biết cậu ta tháo gỡ ra sao mà đứng dậy được. Nhưng người vẫn còn mắc vướng dây thép gai. Cậu thanh niên còn lại không nản chí quyết tâm một mình đẩy ghe đi. Thuyền đến Nhà hát Trung Tâm, vô ý mũi ghe quay ra ngoài nước tống lật ghe chìm. Hai cha con lóp ngóp bơi vào trong vịn thành, ướt như chuột lột. Cơn lạnh bắt đầu thâm nhập vào cơ thể, hai cha con tay chân run bắn, mặt xanh tái. Trong khi đó, cậu thanh niên hập lặn bơi theo dòng chảy để kịp vớt lấy bịch mì cua. Cậu ta trở lại tìm chiếc ghe chìm. Cậu quăng bịch mì cua vào cho tôi, bơi ra nâng chiếc ghe lên. Nước ào ào... cậu đẩy thuyền ép theo bờ thành, hai cha con lên trở lại. "Con chịu khó, gần đến rồi!" tôi ngoảnh nói với con. Cậu thanh niên đang tìm cách vượt qua khoảng trống rộng của ngã sáu dòng sông giáp công của cơn nước lũ cuồn cuộn dữ dằn. Bên góc đầu đường có một chiếc xe bọc thép chết máy đậu lại, hàng chục người đứng trên xe. Chiếc thuyền và cậu thanh niên giằng co nhau giữa sóng nước. Hồi lâu mới qua khỏi "con sông Đống Đa", qua khỏi chiếc xe bọc thép, bắt đầu tiến về đầu đường Hà Nội. Tôi nghĩ thầm cậu thanh niên này có chiến đấu được không giữa bao la sóng nước này? Từ trong xe bọc thép có một người đàn ông lội ra năn nỉ thiết tha cho lên Cầu Mới tìm vợ. Cậu thanh niên đồng ý cho lên ghe. Chắc cậu ta nghĩ tăng trọng lượng trên ghe để giằng cơn sóng nước lũ. Ba người ngồi trên ghe nhỏ chao qua chao về một hồi lâu. Cậu thanh niên nói: "Ngồi yên không được cử động". Ba người tôi ngồi xích lại tay ghì chặt vào thành ghe. Ghe từ từ tiến lên. Được chừng hai mươi mét tình cờ có một cơn sóng dữ dội đánh vào bờ thành dội ra làm chiếc ghe xoay lại. Con nước xoáy lại nhận chìm thuyền lần hai. May cận thành, cha con tôi vịn được, thở hắt ra. Còn người đàn ông đi nhờ trôi ra xa cùng chiếc ghe. Ông ta lặn hụp, nước cuốn trôi về xa trong khi cậu thanh niên đó đuổi theo nhặt bịch mì cua lần nữa, rồi trở lại với chiếc ghe đẩy đến bên chúng tôi. Con ghe vượt lên thêm năm mươi mét nữa bắt đầu tiến sâu vào đường Hà Nội. Liền lúc đó, con ghe chao đảo, ngọn nước lại nhận chìm nó lần ba. Cha con tôi bị chiếc ghe đè lên người nước đẩy trôi. Rất may ghe va vào cây trứng cá đầu đường. Ghe bị lệch dạt ra ngoài rồi trôi tiếp. Tay nắm tay đứa con một tay ghì chặt vào nhánh cây trứng cá kéo lại "Con cố gắng dùng sức kéo lại gần ba trong khi con nước đưa hai đôi chân trôi theo". Một hồi lâu, hai cha con mới trèo được lên cây trứng cá ngồi nghỉ trong khi cơn mưa trút nước không ngừng, ở dưới con nước cuồn cuộn chảy xiết. Tôi xem đồng hồ tay. Mười sáu giờ chiều bầu trời sẫm lại. Gần sáu tiếng đồng hồ chỉ đi được gần năm trăm mét. Còn chừng hai trăm mét nữa thôi, nếu đến thì trời đã tối trong khi chẳng có đèn đóm gì cả. Chiếc ghe cậu thanh niên đã ghì chặt bên thành. Từ gốc cây đến bờ thành xa chừng hai mét thế mà cậu thanh niên không tài nào đưa ghe ra được. Tôi xuống trước, ôm gốc cây tay vin theo nhánh cây, dùng lực đưa chân xuống chạm đất bấm lại, đưa tay phải lên cho con rồi từ từ trụt xuống... Cậu ghì chiếc ghe, run lập cập, mặt xanh, mắt đỏ ngầu. Đã mệt quá rồi nhưng cậu không một lời bàn lui, thật là gan lì! Qua lần thoát chết, tôi ân hận sao lại đưa con đi như thế này nếu xẩy ra chuyện gì thì sao.
Cậu thanh niên thúc dục chúng tôi lên ghe. Ghe bắt đầu tiến ngược dòng sông nước chảy. Cậu ta đã đuối sức lại một mình nên một lần nữa để mũi ghe bị ngọn nước mạnh tống vào. Ghe lật ấp trôi ra xa. Hai cha con tôi tìm được chỗ vịn, ôm nhau trôi theo dòng nước. Tôi ghì con trai lại, dùng sức nâng lên, đôi chân bỗng chạm đất. Ôm nhau đứng như trời trồng, thì đằng xa cậu thanh niên lại bơi theo nhặt bịch mì cua một lần nữa. Chúng tôi vẫn đứng yên một chỗ xem cậu thanh niên có đem ghe đến không. Lần này cậu thanh niên bất lực không đưa ghe đến mà đẩy trôi theo dòng nước trở về không một lời phân giải. Đằng xa kia cậu thanh niên mắc vào hàng rào dây thép gai đã gỡ xong đứng chờ đợi bạn. Đến nơi hai người thì thầm trao đổi gì không rõ, người trước kẻ sau đẩy ghe về chốn cũ. Chung quanh tôi và trên ngã "các dòng sông" không một bóng dáng người, ghe thuyền. Trời bắt đầu sẩm tối. Không thể đứng như thế, chúng tôi đánh liều dìu nhau lội về. Nước lúc vào miệng lúc vào mũi. Lạnh, đói, rã rời... Từng ngụm nước bạc phun ra từ miệng đứa con mười sáu tuổi nhỏ bé của tôi. Nó ngước nhìn tôi: "Sao Ba, con đi không được nữa, nước vào miệng nhiều, còn chuột rút nữa! - Tôi xanh mặt. "Con cố gắng vin vào vai Ba, đưa thẳng hai chân, con chịu khó đau một lúc rồi hết". Tôi đưa vai cõng con chậm rãi lội. Dưới ngã tư kia, hai cậu thanh niên đã đứng bên chiếc ghe như chờ đợi. "Con hết chuột rút rồi, Ba để con xuống và đứng nghỉ một hồi cho lại sức". Hai cậu thanh niên đàng xa, thấy được bóng cha con, biết là đã thoát, bèn đưa tay vẫy chào rồi mất hút phía sau dãy nhà Trường Cao Đẳng Sư phạm. Tôi vừa đi và thầm nghĩ sao họ tốt thế, đã không đòi tiền lại không đợi để nhận một lời cám ơn, một ít bồi dưỡng... Thế là việc cứu phòng tranh của tôi trong cơn lũ thất bại, tôi phó mặc cho trời đất...

Cơn lũ thế kỷ bắt đầu rút thì cha con tôi cũng nằm như không dậy nổi. Cơn cảm cúm bắt đầu hành xác, đầu nóng rang, trong lòng lạnh buốt. Sáng ngày 6.11.99 Hai bố con dậy thật sớm đi bộ lên phòng tranh. Các ngã đường vẫn còn lội đến ngang đầu gối. Đường Hà Nội còn ngang mắt cá. Lên đến nơi, tôi mở cửa phòng ra mà ngao ngán. Đất bùn dày cỡ một tấc. Con nước đánh tan tập tranh giấy mỗi bức cuộn vào đất bùn vày vò che lấp rải rác nằm la liệt như bãi chiến trường. Bộ ghế xa lông nghiêng ngửa bên góc cửa ngoài. Nhiều bức tranh sơn dầu lấp dưới bùn non, Có bức nửa lấp nửa hở, nằm co ro như đợi chờ chủ nhân đến cứu lấy. Tôi thấy vô cùng ngao ngán; cơn đau trong người lại chưa dứt hẳn. Chần chừ mãi tôi mới xắn tay lên. "Con từ từ lấy từ ngoài vào, vuốt bùn ra, nhặt tranh đem rửa, mau cả hết nước". Hai bố con tập trung sức lực hốt bùn non đưa tranh ra ngoài để một đống. Nhiều em học sinh lội nước đi qua đứng nhìn cảnh tan nát của phòng tranh, sà vào, cùng nhau phụ giúp. Có một em sinh viên trường Đại học Sư phạm phụ giúp từ đầu cho đến cuối, dội bùn, rửa tranh rất cẩn thận xếp đặt gọn gàng. Tôi ngồi vuốt ve trở lại những bức còn bùn đọng, những giọt nước mắt tự nhiên rỏ xuống. Biết bao công sức trí tuệ đã bỏ ra trên từng tác phẩm! Thế mà hôm nay nhìn lại cảnh tượng vô phương cứu chữa này. Em sinh viên cùng hai cha con tôi rửa khung vải, khung gương, ghế bàn, rồi giăng phơi tranh phía ngoài trước cửa. Nỗi đau một mình nhận lấy, niềm an ủi được cậu bé sinh viên quan tâm giúp đỡ, cứu tài sản của mình một cách trân trọng không hề vụ lợi.
Từ sáu giờ sáng làm liên tục cho đến 14 giờ chiều mà chúng tôi không thấy đói. Mồ hôi tiếp tục tuôn ra. Chắc chính vì thế cơn cảm cúm của tôi dứt hẳn, khoẻ người. Việc thu dọn phòng tranh tương đối ổn định, tôi mời cháu sinh viên đi ăn cơm trưa. Cháu từ chối: "Con phải về nhà kẻo ba mẹ con lo lắng". Tôi dúi ít tiền vào tay cháu. Cháu dứt khoát không nhận, đẩy xe, đạp đi vội vàng. Tôi đứng nhìn theo. Sao những chàng trai như cậu thanh niên đẩy ghe, cậu sinh này làm cho lòng tôi ấm áp đến thế!
Cửa phòng khép lại, thằng con theo bạn chở về. Còn lại một mình tôi ngồi trên thềm cấp trước phòng nhớ lại thời xưa.
Sau ngày giải phóng, tôi có một khu rẫy của cha ông để lại. Tôi muốn có căn nhà biệt lập treo tranh và nơi sáng tác yên tĩnh ý định đã trở thành hiện thực sau năm tháng. Căn nhà cỡ chừng ba mươi mét vuông, lợp tranh, cột sắt, chung quanh tường là ván ép dày một phân, sơn màu mỡ gà trông rất đẹp mắt. Từ thời kỳ tôi triển lãm tại Đà Nẵng sau triển lãm tại Huế năm (1972-1973) còn lại tranh đưa vào nhà trong rẫy. Khoảng chừng hai năm sau xã Thuỷ Dương có kế hoạch đắp đập thuỷ lợi. Khi gần hoàn thành là lúc mùa đông đến. Vùng đất rẫy thành lòng hồ nước! Và giờ đây... Một tiếng chào gọi tên tôi vút qua, tôi tỉnh lại thở phào từ từ đứng dậy. Dù sao thì cũng xin chào cơn lũ đã qua. Mong rằng mi đừng nên trở lại mà hành quê hương, mà hành ta nữa!...
Huế, ngày 15 tháng 3 năm 2002
L.Q.L

(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN QUANG HÀHầu như mỗi chúng ta chỉ biết Mai Xuân Hòa là nhạc sĩ. Anh đã ra mắt hai tập nhạc viết cho người lớn: "Nỗi đợi chờ", "Khát vọng",và hai tập cho thiếu nhi: " Những điều em thích", " Những ngôi sao đẹp".

  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.