Ký giả Huế viết văn: chấm phá một vài...

08:52 14/07/2020

THUẬN AN

Không có điều kiện để bao quát hết những ký giả viết văn của xứ Huế đương đại, trong khoảng vài chục năm trở lại đây, nhưng tôi nghĩ đó là một đề tài thú vị và đòi hỏi khá nhiều tâm lực. Trong khuôn khổ bài viết này cũng chỉ có thể chấm phá vài ba gương mặt.

Ảnh: internet

Nhà báo Nguyễn Xuân Hoàng qua đời ở tuổi bốn mươi để lại nhiều thương tiếc trong lòng bè bạn. Ban đầu anh công tác ở Đài Phát thanh và Truyền hình Thừa Thiên Huế, sau mới chuyển sang Tạp chí Sông Hương. Anh bắt đầu xuất hiện trên văn đàn với đôi truyện ngắn trên Tạp chí Cửa Việt thuở mới chia tỉnh Bình Trị Thiên đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, sau đó trên Sông Hương với bút danh Hạnh Lê. Truyện anh viết thường không có cốt, chủ yếu gây ấn tượng từ những ý tưởng và lối viết tung tẩy cũng chớm thấy tài hoa. Nhưng có lẽ anh sở trường nhất vẫn là những tùy bút, tản văn mới là cái làm nên “thương hiệu” Nguyễn Xuân Hoàng xứ Huế. Anh đã in năm tập sách, một gia tài báo chí - văn chương không thể coi là nhỏ khi để lại cho đời. Kể tên các tác phẩm: “Hương mùa thu” (2001), “Cỏ hoa xứ Huế” (2003), “Ký ức xứ Huế” (2007), “Hồn mai” (2007) và “Cõi tạm phù hoa” (2011).

Thể tạng tinh thần và bản mệnh văn chương của Nguyễn Xuân Hoàng chính là tùy bút. Dáng đi nghiêng, thường nhìn về một phía của người thích sống nội tâm; mái tóc bồng bềnh lượn sóng và đôi mắt đa cảm, xa xôi phát lộ vẻ bề ngoài của một hồn vía văn nhân như một nghiệp dĩ đã in dấu vân tay số phận từ tiền kiếp. Đặc sắc của tùy bút Nguyễn Xuân Hoàng là tinh tế thầm thì chầm chậm lọc qua ngũ giác mà khởi phát hành ngôn.

Xin đơn cử ba tùy bút rất kiệm ngôn của nhà văn để thực chứng điều vừa mới nói, coi như ba biến thể văn chương của Nguyễn Xuân Hoàng. Trước hết là cảm nhận bằng thính giác trong tác phẩm “Tiếng chuông Thiên Mụ”. Nếu tiếng chuông Trấn Vũ... là thanh âm Thăng Long hoài cổ thì xứ Huế cố đô không thể hình dung chùa Thiên Mụ lại có thể im hơi lặng tiếng. Tác giả kể cho ta nghe cuộc phiêu diêu của tâm hồn qua mỗi tiếng chuông: “Mỗi năm 365 đêm, đêm nào cũng thế, cứ vào giờ Tý, sư trụ trì chùa Thiên Mụ lại cho thỉnh chuông. Mùa xuân, tiếng chuông nghe trong vắt như hơi gió heo may đi qua kẽ lá, làm bồi hồi đất trời, đâu đó những mầm sống cựa mình cho đất nở hoa, cho hoàng mai nở vàng suốt một dãy phố chợ. Kể từ tiếng lập hạ, tiếng chuông nghe thảnh thơi hơn, có nắng gió và sự trầm tĩnh của lòng người thỉnh chuông. Tiếng chuông như có bóng mát che chở mỗi đời người. Nhưng từ trong sâu thẳm vẫn sừng sững một nỗi cô đơn nhân từ của trời cao, và tiếng chuông lúc này nghe như đại ngã bao dung”. Tiếng chuông đã vọng thấu tiếng lòng, từ tri giác mà chạm vào tri ngộ.

Và khứu giác thực sự thức giấc qua “Hương mùa thu” thật là vi tế. Khác với Xuân Diệu thuở ban đầu lưu luyến muốn thả trôi cảm giác khi tự vấn: “Ai đem phân tích một mùi hương...”, Xuân Hoàng đã tái hiện hương hoa cúc đậu xuống tóc người con gái, mùi phù sa, bùn đất không phải xưng danh cũng biết được “Đây thôn Vỹ Dạ” và cả hương bắp nấu thấm đẫm một đời đất nước sông Hương... “Xòe bàn tay đếm hương mùa thu Huế, những hương Thạch Xương Bồ, hương cúc, hương bắp, hương sen... sao vẫn còn thấy thiếu thiếu. Chợt nhớ trong ký ức là còn nữa một mùi hương lá. Chỉ thoáng hiện vào buổi sáng sớm và đậm đặc lúc chiều tối. Lá long não nồng nàn, lá phượng cay thoảng chút chua chua, lá bàng sên sết đắng, lá hoàng hậu ngọt lạnh. Hương lá đã làm cho mùa thu xứ Huế có một phong vị và gương mặt riêng của đất kinh kỳ. Như là một tổng phổ của xứ Sông Hương cơ hồ tác giả “Đi tìm thời gian đã mất”. Còn đây là nghệ thuật thị giác hay là cái nhìn văn chương của Xuân Hoàng khi viết về một ngoại cảnh như là màu sắc mùa hè quen thuộc tưởng chừng như không còn thấy lạ, như thể quên nhận ra hơi thở của chính mình: “Cây phượng bên chân cầu Trường Tiền”. Vậy mà nhà văn vẫn nhìn ra và viết: “Có người đi qua lần đầu chỉ thấy phượng hay hay. Đứng một mình mà làm cả mùa hè. Còn với cư dân Huế, cây phượng là thước đo niềm vui, nỗi buồn, những kỷ niệm chưa bao giờ phai nhạt. Trên lớp vỏ xù xì thời gian vẫn còn đọng mãi những dấu khắc vụng dại. Dấu khắc có khi là một cái tên người trọn vẹn. Có khi chỉ là hai chữ xoắn vào nhau trong một ô van trong ngần tuổi học trò. Vỗ nhẹ bàn tay vào thân cây, nghe như đâu đó dưới mặt sông có tiếng cười âm vang. Rồi một tà áo tím bạch như áo lụa Hà Đông của Nguyên Sa đi qua cội lòng như một giấc mơ đã nhòa hương sắc”.

Văn của Xuân Hoàng thường nhẹ mà sâu, từ tốn mà da diết, tạo được một góc Huế ấn tượng của riêng mình.

Nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc (còn có bút danh thường dùng là Hạ Nguyên) khởi nghiệp văn bút từ khi làm phóng viên báo Thừa Thiên Huế rồi về sau trở thành nhà văn không chút ồn ào. Lứa tôi còn nhớ truyện ngắn chép bằng tay “Thảo nguyên thứ 18” lần đầu in trong giải phẩm “Cỏ” của sinh viên văn khoa, từng được nhiều bạn trẻ xuýt xoa. Đó tác phẩm văn xuôi trong suốt, giàu chất thơ và hồn nhiên triết lý của thời trai trẻ. Nhưng có thể về sau khi đã già dặn trường đời và sách vở, chắc gì đã viết đạt một cách nhi nhiên.

Cho đến nay nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc đã xuất bản: “Chuyện Huế” (tập bút ký, 2008), “Đi qua cánh rừng” (tập thơ, 2009), “Đôi triêng gióng của mạ” (tập tùy bút, 2011), “Chiếc ô đi lẻ” (tập thơ song ngữ Việt-Anh, 2013), “Hoa đăng” (tập trường ca, 2014), “Giọt mực của mưa Huế” (tập trường ca, 2019), “Có những ngày” (thơ Tân hình thức Việt, 2019).

Bút ký, tùy bút, tản văn của Thanh Ngọc cũng tạo được giọng điệu và dấu ấn riêng, đặc biệt nhiều đoạn tôi thích cách lập ngôn của anh, ngay cả khi viết về một đề tài rộng như đất trời và hẹp như một lối nhỏ độc hành trong xóm nhỏ ở đất cố đô. Tác giả viết tản văn “Mùa đông Huế” chẳng hạn, ngay khi mở đầu đã vượt thoát lối từ chương mòn cũ, dụng công tự nhiên mà hào sảng theo cách của riêng mình:

Với tôi, mùa đông Huế bắt đầu không phải từ những cơn mưa tháng mười áp thấp da diết dầm dề, không phải từ những cơn gió lạnh lê thê len vào cửa trong một đêm bắt đầu lập đông trở gió; mà là từ khi những cành cây sứ ở Phu Văn Lâu thu mình rụng hết lá để từ đó bước vào chuỗi ngày cam chịu rét mướt đầy cốt cách. Cái cách những cành cây sứ đứng gan góc chơ vơ trong sương sớm giá lạnh cơ hồ như những kiếm khách khoác áo khinh cừu, coi thường bão táp mưa sa, bỏ ngoài tai những lời rên rỉ của đám cỏ cây thảo mộc yếu đuối bên ngoài bờ sông.

Viết về cái ăn, cái đói quay quắt của một thời sinh viên gian khó trong mùa đông Huế nhưng không khiến người ta nhỏ bé đi mà vẫn toát lên vẻ hiệp khách, thi nhân cũng ở tản văn này. “Mùa đông dông xe lòng vòng ra đường, thành phố nhỏ nên góc phố nào cũng chứa đầy kỷ niệm. Năm nào xưa đó, sinh viên qua cầu Kho Rèn kiếm quán bà Cúc đổi áo ăn khuya mà như Kinh Kha sang sông một đi không trở lại. Năm xưa nào đó, quãng một giờ sáng vét sạch túi đủ gọi một tô phở trên đường Nguyễn Khuyến cho cả mấy nhà ẩm thực tương lai nếm cho biết thế nào là phở gốc Huế… Những xe phở khuya đó giờ đã tang bồng theo dấu xưa kỷ niệm, không còn thấy những lò lửa ấm đi dọc trong mưa phố cùng tiếng gõ cốc cốc ấm lòng giữa đêm khuya. Sao bỗng dưng lòng rưng rưng khi biết mình đã mất đi cái không bao giờ tìm thấy lại được, dẫu chỉ một lần…”.

Thơ, có lẽ là địa hạt mà Thanh Ngọc tâm huyết và mong mỏi đổi mới nhất, khi anh luôn hân hoan chào đón những tìm tòi có ý thức của những cây bút hậu hiện đại và tân hình thức. Với bản ngã Thanh Ngọc cũng vậy. Mặt khác, nhà thơ luôn ý thức giới hạn sáng tạo của chính mỗi người để mọi phá cách đều có giới hạn và có thể chấp nhận được. Tâm thế tự cân bằng này đã trang điểm cho Nàng Thơ dù tân kỳ đến mấy nhưng vẫn gần gũi nên không quá kiêu sa, bí hiểm. Đó cũng là nghệ thuật tiết chế để tự thân thăng bằng trong sáng tác thi ca với một người luôn khát khao kiếm tìm và thể nghiệm:

Ngọn nến thắp trong đêm
Cháy lên bức tranh tĩnh vật
Sự lay động của đốm sáng

Người họa sĩ bắt đầu vẽ
Có thể thêm một chiếc sừng trâu của vành
trăng khuyết
Có thể thêm lời hát thì thầm của rêu
Có thể thêm đêm nguyện thề của cỏ
Có thể là những ánh mắt sang ngang
Có thể...

Nhưng dầu sao đi nữa
Gió ơi đừng làm tắt nến

Bởi tĩnh vật đen là giới hạn cuối cùng.
                                   (Nến)

Bùi Ngọc Long (phóng viên báo Thanh niên thường trú ở Huế) cũng đến với thơ trước khi đến với văn xuôi như thường tình của nhiều cây bút khác xưa nay và cũng được nhiều người đồng cảm. Nhà thơ Từ Dạ Thảo học văn khoa cùng trường trước Bùi Ngọc Long mấy khóa cũng có lần tỏ ý thích thơ anh.

Mới đây, anh cho xuất bản tập sách “Thiền sư ở đâu?” nghe mơ hồ, chấp chới như một công án thiền. Dù lắm lúc hỏi cũng là một cách trả lời và đôi khi vô minh đã sáng soi cho minh triết, hay ít ra với những điều tưởng chừng minh triết. Một hành trình nhận thức và tư tưởng thật không đơn giản.

Bản thân câu hỏi trên đã bao hàm câu trả lời thiền vô trú xứ. Tư tưởng ấy bàng bạc trong triết học phương Đông và từng được lý giải trong Thiền luận của học giả Suzuki mà một thời trai trẻ tôi đã đắm mình...

Non nửa đời người tôi vẫn chưa tìm thấy ngài. 14 tuổi, ngày ông nội tôi mất, thầy đã đến. Thầy đã tụng kinh cầu siêu và tiếp dẫn hương hồn ông nội tôi về với thế giới cực lạc:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ diệc như điện

Ưng tác như thị quán...

Đại ý tất cả pháp hữu vi đều như mộng, huyễn; như bọt sóng, bóng; như sương, như ánh chớp. Hãy quán chiếu như thế. Lời bài kệ sâu xa mà thầy đã xướng lên trong nghi lễ cầu nguyện cứ vang vọng níu gọi tôi về một nơi nào đó thật vô định. Mãi sau này tôi mới biết bài kệ ấy là 4 câu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong kinh Kim Cang.

Và cuối tản văn, tác giả đã nhìn thấy thiền qua thơ:

Lên chùa không thấy Phật
Xuống núi chẳng thấy tình
Hỏi sư, sư không nói

Hỏi Bụt, Bụt làm thinh
Không lên chùa tìm Phật
Chẳng xuống núi gọi tình
Phật và Em nhất thể

Chỉ mình ta vô minh
Không Sư không Phật nữa
Ta cứ đi một mình

Mai về bên Cực lạc
Cười một tràng Tâm kinh

Bụi trần như bay hết, chỉ lưu lại một nỗi cô đơn hành giả.

Huế sẽ còn ám ảnh và duyên nợ dài lâu với nhiều người cầm bút. Đó quả thực là một ấn tứ cố đô mà không phải nơi nào cũng có. Mà một khi đã là duyên thì khó thể chối từ.

T.A
(SHSDB37/06-2020)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VÕ QUÊLTS: Hoạ sĩ Dương Đình Sang, sinh năm 1950 tại Huế, nguyên giảng viên Đại Học Nghệ thuật Huế, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, hội viên Hội Liên Hiệp VHNT TT.Huế, mất ngày 18 tháng 10 năm 2005.Dù trái tim hoạ sĩ đã ngừng đập nhưng tình yêu và khát vọng Cái Đẹp vẫn còn sáng mãi trong sự nghiệp sáng tạo của ông.

  • LTS: Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương, sinh năm 1949 tại Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, mất ngày 21 tháng 10 năm 2005. Bài viết sau đây của Hạnh Lê sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương.

  • BÙI MINH ĐỨC...Vua Minh Mạng (1791-1841) lúc sinh thời đã có đến 43 bà phi tần nhưng người vợ đầu tiên của vua là bà Hồ Thị Hoa (1791-1807). Bà nầy là một người hiếu đức hiền thục và cũng là con của một công thần nên Bà đã được Vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn đưa vào cung Tiềm để hầu hạ cho Hoàng tử con mình...

  • TRẦN HOÀNGThật là thú vị khi được đọc bài “Như thế nào thì được gọi là người Huế?” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê (Sông Hương số 187 tháng 9/2004) và bài “Người Huế, anh là ai?” của nhà giáo – dịch giả Bửu Ý (Sông Hương số 188 tháng 10/2004). Hai anh Nguyễn Khắc Phê, Bửu Ý, người quê xứ Nghệ, người gốc xứ Huế, trong bài viết của mình, dù cách viết, cách kiến giải có khác nhau, nhưng đều tập trung bàn luận, “xác định tính cách Huế, đặc tính người Huế”.

  • DUY PHITriều Nguyễn có nhiều nhà thơ lớn. Có một tác giả thơ xuất sắc thời ấy, song trên một trăm năm qua còn ít người biết đến, đó là Hoàng Văn Hoè (1848-?).Ông hiệu Cổ Lâm, quê gốc làng Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh, vốn thông minh từ nhỏ, bảy tuổi đã đọc Hán thư, có tài thơ văn, ông đỗ tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác - chuyên về văn chương. Ông làm quan đến Thị độc, sau ra làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình.Cuộc đời của Hoàng Văn Hoè là một bài ca đầy bi tráng.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTố Hữu không những là một nhà thơ mà còn là một lãnh tụ chính trị được cán bộ và chiến sĩ rất trọng vọng. Nhiều lúc tôi có cảm giác trong tình cảm cán bộ: sau Bác Hồ là đến “Anh Tố Hữu”. Nghe thơ không những người ta tìm cái hay của thơ mà còn tìm ý kiến chỉ đạo cách mạng của ông Tố Hữu trong thơ nữa.

  • NGUYỄN TỐNGNguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐàn ngựa cuồng phong lồng về Hà Nội một đợt mưa rét lạnh. Gió thổi mạnh vào khuya khiến lòng người chợt trắc ẩn, thao thức. Có cảm giác như phía Phủ Doãn có một người đang đi trong "Gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây, gió reo sầu miên, gió đau niềm riêng, gió than triền miên". Ngỡ như ai đó huýt gió giai điệu "Đêm đông" trên đường đêm nơi ngày nào Nguyễn Văn Thương bắt đầu cảm hứng cho tình ca nổi tiếng ấy. Một thoáng mong nhớ về người nhạc sĩ tài năng này.

  • NGÔ KHAPháo đài Láng đi vào lịch sử kháng chiến của thủ đô Hà Nội và của dân tộc ta như một sự tích anh hùng. Khai hỏa loạt đạn đầu tiên bắn vào thành Hà Nội, mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc chống xâm lược.

  • LÂM QUANG MINHSau bao nhiêu sự kiện và bộn bề công việc cuốn hút anh em Thanh niên tiền tuyến chúng tôi trong những ngày lịch sử sôi sục khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên - Huế, có một câu chuyện mà suốt 60 năm qua tôi chưa có dịp nào chia sẻ và kể lại cho anh em bè bạn nghe. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ và câu chuyện trao đổi ngắn ngủi giữa hai công dân - một bên là tôi, một bên là công dân Vĩnh Thuỵ - ngay sau ngày lễ thoái vị ngôi vua hôm trước.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 140 năm sinh cụ Phan Bội Châu 26/12/1867-26/12/2007)                            1. Sau phiên toà đại hình mở tại Hà Nội ngày 23/11/1925 kết án khổ sai chung thân cụ Phan Bội Châu, trước sức ép của dư luận trong nước và quốc tế, toàn quyền Pháp Varenne buộc phải ra lệnh “ân xá” và đưa Cụ về “an trí” tại Huế.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC * Như cá lội tung tăng trong nước, không hề biết mình bơi bằng cách nào, đôi lúc người Huế cũng sống hồn nhiên, không cảm nhận một cách rạch ròi về tính cách Huế, về yếu tính của một vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên và một đời gắn bó máu thịt.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGLTS: Tháng Mười, tháng kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20.10.1930 – 20.10.2002), Sông Hương giới thiệu với bạn đọc một khuôn mặt phụ nữ Huế nổi danh từ đầu thế kỷ XX, người từng được cụ Phan Bội Châu cho lập miếu thờ và gọi là Ấu Triệu.

  • BỬU NAMBửu Chỉ là một cái tên không xa lạ với những ai ở miền Nam trước 1975. Anh là người hầu như duy nhất vẽ tranh về đề tài chiến tranh và hoà bình.Tên tuổi và tranh bằng bút sắt, mực đen của anh đã sóng đôi cùng với những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn - một người con yêu của xứ Huế đã làm rạng rỡ vùng đất đã sinh ra mình.

  • TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG(Trích tham luận trong Hội thảo kỷ niệm 120 năm ngày sinh Ưng Bình Thúc Giạ Thị tổ chức tại Huế)

  • TRỊNH CÔNG SƠNTrong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hòa bình thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Để ghi nhận những công lao to lớn của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng nền văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều giải thưởng cao quý tặng cho những công trình văn học - nghệ thuật xuất sắc của nhiều thế hệ cầm bút: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.

  • THANH THẢOThơ Nguyễn Khoa Điềm say mê trong điềm tĩnh, khi nói những điều cao lớn, thơ ấy vẫn biết cúi nhìn những vật thấp nhỏ, những điều bình thường.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân cách Việt Nam ưu tú và vĩ đại của thế kỷ XX. Bài này thử nêu lên một vài khía cạnh của nhân cách đó.

  • LTS: Nhân lễ một trăm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Toà soạn nhận được bài viết của Cư sĩ Lê Quang Thái, giáo viên trường Trung cấp Phật học Thừa Thiên Huế - cung cấp thêm nhiều tư liệu quí về Trịnh Công Sơn và gia đình, theo “Phổ hệ” Qui y Tam Bảo tại chùa Phổ Quang - Huế, nhằm giúp độc giả hiểu thêm về quãng đời niên thiếu của nhạc sĩ tài hoa - người con thân yêu của xứ Huế đã viên thành...Sông Hương trân trọng giới thiệu và xem đây như một nén hương lòng gửi tới hương hồn Nhạc sĩ.