Khúc phong cầm trên cát

15:55 20/01/2016

LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

Chúng tôi về Điền Lộc vào một ngày tháng năm, nắng hực trảng cát hun hút trải dài mùa biển.

Anh Trần Văn Liêm, một giáo viên ở đất Phong Điền, rất mê những trầm tích trên vùng Ngũ Điền nhiều cát gió đã dẫn chúng tôi đi qua những ngõ xóm Điền Lộc ngoằn ngoèo. Anh Liêm gắn bó với rẻo đất bãi ngang, ở đâu có di tích anh đều biết, hướng dẫn tận tình như người dân trong làng. Đi vào sâu Điền Lộc, cát chạy mãi dưới chân, tự dưng nhuốm cho tôi chút cảm mến với vùng đất lạ. Một lần được in chân vào mặt cát là một lần giao hòa với miền quê hương mật. Cồn cát nặng gót mẹ gánh gồng đi chợ sớm, nặng gót em những giờ đến trường nắng đổ mồ hôi; những người già bước chân nặng gót mỗi lần qua đồn ông Vệ có chòi canh cheo leo trên đồi cát. Thời chống Mỹ, Điền Lộc được đánh dấu trên bản đồ quân sự như một tuyến phòng bị, có đồn lính, có chòi canh. Thỉnh thoảng xuất hiện những đơn vị thủy quân lục chiến của chế độ cũ tập trận, hành quân, máy bay trực thăng Mỹ quần thảo qua hàng cây xanh. Cát vô tình biến thành chiến lũy, buồn đau với phận người. Những hàng phi lao được chặt trụi để thoáng tầm nhìn, nhiều người lặng lẽ ngã trên cát trong những cuộc giao tranh. Khi hòa bình lập lại, tàu thuyền tấp nập trên bãi làng Tân Hội, Hòa Xuân. Những khoang thuyền đầy cá, nhưng rồi nước mắt chứa chan, những người vợ đợi chồng đi biển xa, những người vì mưu sinh bỏ quên mình giữa đại dương thăm thẳm.

Những người nghèo ở Tân Hội gắn bó với cát, với Bàu Rò nước đong đầy xanh thắm. Bàu nước ngọt ấy hình thành giữa cồn cát, nhiều cá tôm mùa nước lên chen chúc nhau bò chơi trên cát. Mùa khô nước cạn, đất bùn màu mỡ trở thành ruộng hoa màu ngọt tươi hơn đất nào hết ở Ngũ Điền. Xưa, bàu nước này còn có trăm chim về quần tụ, đất lành nguyên vẻ hoang sơ. Nay, người dân còn lập những trang trại vịt quanh bầu, tiếng kêu của lớp lớp đàn thủy cầm phá tan không khí hoang vắng nơi bầu cát. Dọc con đường cát, những người đàn ông lực lưỡng vùi mình đào xới những lớp cát tìm phế liệu kiếm sống qua ngày. Đôi người dùng những con bò kéo những xe cát đầy dùng vào mục đích xây dựng nhà cửa. Cát theo bước chân ai qua những miền đất lạ. Cát theo chân tôi, vàng óng ánh giữa nẻo phù sa Ô Lâu từ ngàn năm đã êm ả chảy qua đất lành.

*

Trước mặt Điền Lộc, sông Ô Lâu trong xanh chảy qua êm đềm với chiều dài khoảng 3km. Dòng sông mang phù sa màu mỡ từ vùng rừng núi phía Tây Thừa Thiên Huế đổ về phá Tam Giang. Đoạn qua Điền Lộc đã là hạ lưu, gần cửa sông Ô Lâu đổ vào phá, lòng sông đây ở nở rộng, hai bên xanh mướt màu cây. Nguồn nước Ô Lâu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Sông hiền lành là vậy nhưng những ngày lũ lụt gầm thét vang trời, nước dâng lên quấy xóm quấy làng, chia cắt đường sá. Ngày tôi ra Điền Lộc, hoa sen giữa hạ nở hồng cánh đồng. Dăm con thuyền bé chèo nhẹ, lướt qua những chiếc rớ bà dựng choáng góc sông. Gió thổi mát rượi, mang nguồn thơm của sen, của lúa trổ đòng xông nồng cánh mũi. Làng quê rất gần gũi, rất thơm, như thể là nhà, là cố quận. Dừng lại trên cầu Hòa Xuân, nhìn trời nước thấm vào đáy mắt, lòng người se lại. Nắng chầm chậm rưới sắc vàng nhuộm sông, ao sen, đồng lúa. Xa xa, trong màu mây xám nhạt, những độn núi sừng sững góc trời chạy dọc một rặng xanh. Ở phía Tây, Trường Sơn một dải chấn ngang chân trời màu tím đậm. Bạch Mã xa kia mây cuộn trắng đầu. Huế như gần lại từ điểm nhìn của vùng bãi ngang. Ngày xưa, những bước chân di dân khai hoang mở đất đầu tiên hoặc là từ biển cập bờ, hoặc theo vùng sông nước, đầm phá từ phía Đông mở dần về phía Tây. Vùng Ngũ Điền hay Điền Lộc là nơi những bước chân đầu tiên dựng làng lập ấp của người Việt từ Bắc vào. Những xóm làng mọc lên trên cồn cát hoang vu, bên sóng biển, bên những dải đất phù sa chua mặn, rồi ruộng, rồi đồng, màu xanh choáng dần khoảng vàng đen cằn cỗi của cát, của bùn.

Những lớp người Việt đầu tiên đến định cư sinh sống trên mảnh đất Điền Lộc sớm nhất là vào cuối thời Trần, tương đương với chiều dài lịch sử của hơn 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế. Sau khi mảnh đất châu Ô, châu Rí thuộc về nhà Trần vào năm 1306 qua cuộc hôn nhân chính trị Huyền Trân công chúa và Chế Mân, nhiều di dân Việt từ phía Bắc đã di cư vào đây. Thời kỳ này, những nhóm người ít ỏi cư trú trong tình hình chưa ổn định vì đất Thuận Hóa lúc ấy là miền biên cương phía nam của quốc gia Đại Việt, nơi thường diễn ra nhiều cuộc tranh chấp với Chiêm Thành. Đến thời Hậu Lê thì các hạng quan chức, lính tráng mới được cứ vào trấn giữ và mở mang bờ cõi phía Nam. Những ngựời trong gia đình, kẻ hầu người hạ đi theo họ khiến cho thành phần dân cư thêm đông đúc. Nhiều làng xã hình thành với số lượng cư dân nhiều lên qua từng ngày. Đến khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn giữ đất Thuận Quảng (năm 1558), trong ý đồ xây dựng Đàng Trong để cát cứ, đất Thuận Hóa có sự phát triển mới. Được lệnh vào Nam, những bề tôi, đồng hương nghĩa dũng ở Tống Sơn (Thanh Hóa) và các vùng Nghệ - Tĩnh đã di theo ông rất đông, đây chính là lực lượng hùng hậu bổ sung cho việc khai hoang lập làng, xây dựng và mở mang vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân. Điều này giải thích tại sao tổ tiên cư dân ở Điền Lộc và nhiều vùng ở Đàng Trong đều từ các tỉnh ờ miền Bắc vào, nhất là ở vùng đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Các thời kỳ tiếp theo có những người dân từ nhiều nơi dưới nhiều hình thức, lý do khác nhau cũng đến sinh cơ lập nghiệp, cùng sự phát triển dân số tự nhiên đã hình thành nên những xóm làng mới ở Điền Lộc như ngày nay. Ngày nay, xã Điền Lộc có 8 thôn gồm: Nhất Đông, Nhì Đông, Nhất Tây, Nhì Tây, Giáp Nam, năm thôn này thuộc làng Đại Lộc là một ngôi làng có lịch sử lâu đời trên vùng đất Ngũ Điền và các thôn ven biển là Mỹ Hòa, Tân Hội và Hòa Xuân. Những con đường ngang dọc đi qua Điền Lộc tạo điều kiện cho nhân dân nơi đây mở rộng giao lưu với bên ngoài.

Điền Lộc có diện tích đất tự nhiên thuộc vùng đồng bằng ven biển, xen kẽ có những độn cát thấp ẩn chứa nhiều vết trầm tích thời gian. Nhìn từ trên cao, Điền Lộc có ba mảng màu riêng biệt, màu xanh mướt của ruộng lúa, màu vàng của những cồn cát và màu xanh đục của những thôn giáp biển trồng nhiều phi lao. Đi miết về phía đông, màu xanh thẳm của biển Đông réo vỗ bên triền cát dài Điền Lộc. Với địa vật như thế, đất đai ở đây có đặc điểm là đất mặn phèn trên phù sa phủ cát, được phân tầng rõ rệt theo chiều sâu. Tầng trên dày khoảng 20cm, màu xám nâu (lượng cát chiếm 86%); tầng giữa dày khoáng 25cm, xám trắng, lượng cát giảm, bột sét tăng lên. Xuống sâu hơn nữa thì độ phèn càng nặng. Nhìn chung, đất hơi chua, hàm lượng chất dinh dưỡng không cao, người dân sử dụng để trồng lúa, năng suất không cao bằng các vùng chuyên canh khác và nhiều loại cây lấy củ như khoai, sắn, các loại rau màu.

Tôi may mắn gặp được anh Lê Tấn Quý, một lãnh đạo tại xã Điền Lộc, người nắm rất rõ đất và người Điền Lộc cùng trò chuyện. Anh kể về vùng đất quê mình nghèo khó, từng tấc đất trồng trọt quý như vàng trên dải đất Ngũ Điền và những giai thoại lý thú để có được bề mặt đất như hôm nay. Để có được 1300 ha đất canh tác như ngày nay, cư dân Điền Lộc đã mất rấy nhiều công sức, mồ hôi thấm ướt ruộng đồng để khai hoang dải đất không mấy màu mỡ. Việc xác lập đất đai nơi đây có nhiều giai thoại thú vị nhất là với đất đai dân làng Đại Lộc. Một người phụ nữ lấy chồng ở Điền Hòa đã lâu nhưng không có con; chồng chết và bà đành xin gia đình chồng cho được về lại nhà mẹ đẻ. Bà cũng ngỏ ý xin đất nhà chồng bấy giờ là một gia đình có vai vế, thuộc hàng đại phú ở Điền Hòa, để trồng rau muống. Nhà chồng đồng ý và nói bà bê tảng đá do họ chọn, bê lúc nào bà mệt, đá rớt và dừng lại thì đất bà được cấp tính từ ranh giới Đại Lộc tính qua. Bà cố gắng hết sức mình bê tảng đá và ngày nay mang về cho dân làng Đại Lộc được 7 ha ruộng lúa ngát xanh. Về sau, dân làng cảm tạ ơn bà đã lập miếu thờ gọi là nghè Mụ Bà để thờ phụng đến hôm nay.

Những mảnh đất trồng trọt được đôi khi còn đổi bằng cả sự tủi nhục và mạng sống. Giai thoại về chuyện đất của ông Xạ khiến người đời thấy đau cho cả đôi bên. Ông Xạ làm rể Điền Môn, gặp đúng nhà vợ là gia đình quyền thế, cha vợ làm quan lớn nắm sổ sách về đất đai của làng. Một lần, cha vợ đi vắng, ông đánh liều đánh cắp được trích lục về địa bạ Điền Môn mang giao lại cho làng Đại Lộc. Sau nhà vợ biết chuyện này, ông ân hận tự tử. Dân làng nhờ ông Xạ mà có thêm được 3 ha đất màu, chỉ có ông là thiệt thân, chết cũng không dám làm lăng mộ. Vài đời sau, người ta quên chuyện, ông Xạ mới được làm mồ và lập Nghè ông Xạ để dân làng thờ phụng như một “công thần” mang thêm đất màu về cho Đại Lộc đầy chua mặn.

Làng Đại Lộc có tới 19 xóm là các xóm như Xóm Toán, xóm Chùa, xóm Trà, xóm Vẻ, xóm Cường, xóm Vịnh, xóm Nhật, xóm Ngãi... được xem là một ngôi làng có thiết chế bề thế và quy mô nhất Điền Lộc. Những người dân nơi đây quần quật làm việc, khi trên đồng, lúc xuống sông, đêm ra biển... sản xuất và đánh bắt vô số sản vật. Từ đó, tất cả đem ra chợ Đại Lộc. Chợ Đại Lộc (tên dân gian là chợ Đại Lược) là trung tâm buôn bán, trao đổi hàng hóa của nhân dân địa phương với các vùng phụ cận. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, dưới thời nhà Nguyễn, chợ Đại Lộc có “quán xá đông đúc, rộng rãi”, cho thấy tầm quy mô, vị thế quan trọng của chợ trong đời sống nhân dân Ngũ Điền. Do thuận lợi về mặt giao thông đường thủy, đường bộ nối với các vùng ven biển, chợ Đại Lộc là đầu mối giao lưu hàng hóa giữa nhân dân các xã của hai huvện Phong Điền, Quảng Điền (tỉnh Thừa Thiên Huế) và cả huyện Hải Lăng (tỉnh Quảng Trị). Chợ nằm trên ngã ba đường, theo trục đường chạy dọc vùng bãi ngang Phong Điền, Quảng Điền và trục đường nối vùng Ngũ Điền với Phong Chương, lại gần sông Ô Lâu, thủy bộ đều rất tiện. Chợ Đại Lộc một thời nổi tiếng với các sản vật của địa phương gắn với nguồn tài nguyên biển, đầm phá và hàng hóa trao đổi từ các vùng khác đem đến. Từ khu vực chợ Đại Lộc, dân cư quần tụ đông đúc, càng đông đúc hơn nữa khi có sự tụ họp của cư dân trong vùng về mua bán, khiến vùng này trở thành một thị tứ khá sầm uất. Trong dân gian truyền tụng câu ca:

“Thuyền về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đến nơi đây là chỗ rẽ của dòng
Bạn về quê bạn biết gửi lòng về mô”


Ngày xưa, để có sự luân chuyển hàng hóa vô Huế, mọi thứ ở đây đều di chuyển bằng thuyền tiện bề sông nước, cầu cống bấy giờ cũng chưa có như sau này. Hàng hóa sau khi trao đổi ở chợ Đại Lộc, thương lái sẽ tập trung vào thuyền rồi đi trong chiều cho đến sáng hôm sau kịp phiên chợ trong kinh thành. Cả Đại Lộc thời đó chỉ có 1 - 2 thuyền do các tư nhân góp vốn nhau lại, làm phương tiện thông thương hàng hóa từ đây ra bên ngoài. Thuyền có kích cỡ vừa phải, khoảng chục người chèo, có gắn cột buồm bằng vải để tận dụng sức gió. Thuyền theo sông Ô Lâu vào phá Tam Giang, từ đó qua sông Hương và đi thẳng lên chợ Đông Ba. Phần lớn thời gian di chuyển trong đêm, câu ca tiếng hát cất lên, phá tan sự tĩnh lặng của màn đêm u tối. Thuyền đi nhanh đi xa kịp phiên chợ, mang về nhu yếu phẩm cần thiết cho bà con Đại Lộc miền xa. Bao thế hệ có được nhu yếu phẩm cần thiết đều nhờ những con thuyền xuyên duyên Đại Lược - Kim Long này.

*
 

Ảnh Lê Vũ Trường Giang

Về đây Tân Hội những xóm nghèo mỏng dính bền chí sống mãnh liệt bên cồn cát trắng, bên biển xanh trong. Cát xô trước thềm nhà, trải ra những con đường bát ngát về những miền xa duyên hải. Dải cát Điền Lộc ôm vành biển hiền hòa tự ngàn đời vỗ giấc du ca. Từ cát tỏa ra mùi của cỏ cây hoang dại, thứ hương buồn bã của những cây cỏ đậm chất tinh dầu nơi mộ địa. Tất cả dường như cúi mình trước bóng xương rồng trên trảng cát. Xương rồng, loài cây chí cốt muôn đời với cát bỏng, trung kiên và sâu đậm. Về Điền Lộc nhằm dịp những bông hoa xương rồng nhụy xanh cánh trắng mang ngàn năm ánh sáng nở biếc bình minh. Nếu như cát là niềm tự do giữa vùng bãi ngang Ngũ Điền mặc sức chạy nhảy xuống đầm ra biển, thì hoa xương rồng là giọt nước mắt vĩnh hằng trên triền cát.

Ngư dân Nguyễn Văn Triển, người suốt đời bền bỉ nơi trảng cát quê nhà, mồ hôi và nước mắt của ông đã đổ thấm từng con đường mòn nối dài ra biển. Đó là một ngư dân dáng người đậm, thân hình hãy còn vâm váp mặc dầu qua tuổi lục tuần đã lâu. Gương mặt đen sạm vì nắng gió, người nồng vị xa xăm của biển. Và giọng ông, như một cơn sấm chiều rền rả. Buổi chiều về Tân Hội, lão ngư dân chưa kịp chuyện trò đã lên đường ra biển kéo lưới mẻ cá. Chân đất, ông đi làu làu trên cát, băng qua hàng phi lao, cỏ dại như người chạy maraton, mà sức thường dễ phải sái chân. Cả đời ông, đi đi về về với biển, xa biển là không chịu được. Vốn là một trưởng thôn, ông nói rõ đến từng con số, 102 hộ với 339 nhân khẩu chia làm 6 xóm tự quản biến Tân Hội thành một ngôi làng khá vuông vắn trên trảng cát. Tuy gần biển nhưng tàu cá ngày càng ít lại. Ông kể, trước năm 2002, ghe thuyền đậu chật bãi biển Tân Hội, có cả những tàu đánh bắt xa bờ, giờ nghề đi biển chẳng mấy ai mặn mà vì rủi ro lớn và người trẻ cũng đi làm ăn xa, để thuyền hà muối phải bán đi. Giờ ngư dân như ông chỉ còn cách đi theo những thuyền nhỏ ít ỏi còn sót lại đánh bắt gần bờ hoặc hè nhau bủa lưới kéo cạn sống qua ngày. Cát Tân Hội khô trong lòng ông, nhưng những con tàu sẽ thôi ác mộng mắc cạn vì ngày mai.

Đời ông gắn biển, gần cát, gần cả những linh hồn trên cát. Ông kể về cuộc chạp mộ cho các âm linh cô hồn nơi Tân Hội. Đó là những nấm mồ vô chủ, lâu ngày không có ai chạp, những người chết biển, chết vùi trong cát được dân làng chôn cất, thờ phụng. Những ngôi mộ nhỏ nằm rải rác trên trảng cát, trên nghĩa địa làng hoang vu, bạt ngàn. Hằng năm, cứ đến ngày 15/1 Âm lịch, làng đều cắt cử người đi chạp mộ cho những vong linh không nơi nương tựa. Nghĩa cử này làm thơm trảng cát những ngày xuân. Lão ngư dân, lời thẳng như cột vè bơi trải, sống trong cát chết vùi trong cát, trong cát có ngọc, ngọc tìm đâu xa. Một ý nghĩ lóe lên, có khi tôi gặp được cậu bé của Paulo Coelho ngày nao trên trảng cát Điền Lộc.

Kết thúc câu chuyện với lão ngư dân, tôi lên xe đi về phía biển tìm kiếm một những hồi ức và mộng ảnh còn vương trên cát. Cát chạy mãi, rào rạt gào dưới chân những hàng phi lao khắc khổ. Cát bay qua nóc những ngôi nhà ngư phủ đã mục đi vì nắng muối. Cát đậu trên bông xương rồng héo nguội cuối ngày. Cát nghe gió kể về câu chuyện cổ tích nghìn đời của nỗi đau thất lạc mẹ con. Hạt cát buồn tắm ướt mình dưới đầu sóng. Tất cả lặng yên bỏ mặc tiếng ca của sóng hát xanh bến bờ đi qua, vùng đất lạ, cánh chim và những con tàu. Trên vùng cát mênh mông trắng chiều Điền Lộc, những hoang liêu thức giấc, gọi tên mình trong nỗi ngơ ngác của con gió lạc bầy. Tôi lang thang khắp trảng cát và phát hiện vô số bụi xương rồng mọc hoang trên cát, chạy vào cồn mồ, ra tận bãi biển. Hơi biển mặn đáy lòng, nụ xanh ngậm ngùi trong tay như thở những tàn hơi cuối cùng đầy mưa nắng. Hồi ức về bữa rượu bên bãi trăng sáng vùng cửa Thuận, rượu từng chén chuốc lên môi. Trăng tan trong rượu, tai chạm tiếng chuông chùa, tiếng kinh cầu chấp chới... Ngoài kia sóng vỗ bến bờ, bóng ai bay trong phách nhạc run lạnh mộng. Hoa xương rồng quắt queo trong tay như giọt nước mắt héo. Loài xương rồng đến kiệm giản với niềm vui, cả một năm mới cho ra hoa quý nhưng chóng lụi tàn, trả lại nét nguyên sơ của xác thân khắc kỉ.

Giữa màu xanh bạc sờn của loài xương rồng, cuộc sống êm đềm diễn ra từng giây từng phút. Trong từng đường gân, gai nhọn, chú kiến vàng vội vã gồng gánh thức ăn về lo tổ ấm. Bên bông hoa chớm nở, chú ong mật lẹ làng tách cánh. Tất cả tìm tìm lối riêng mình, cách này hay cách khác để tồn tại giữa thế gian, dù khắc nghiệt, dù nguy khó. Trên con đường ngập cát, hỏi màn đêm để nhận sự lặng thinh, hỏi xương rồng để nghe những mầm xanh khe khẽ cựa mình trong đất. Thứ nhựa đời rất thật gắn kết những thất bại và nỗ lực, gắn màu xanh lên cát khô cằn. Và dù bóng tối đổ đầy từng hốc mắt, xương rồng sẽ đứng như một người hiến binh trên cồn cát vàng nhòa đêm miền lộng gió.

Có những thân xương rồng bị thời gian đốn gục, úng đi, rơi rụng khỏi phần thân gốc, hoai mục rồi biến mất, lẩn hòa vào cát. Số ấy thường rất ít, thay vào đó là sức mạnh sinh tồn ghê gớm của xương rồng. Một sự đồng hiện giữa hình tượng cây xương rồng trên cát như Hartari - hình ảnh người chiến binh sa mạc đầy niềm tin tâm linh mãnh liệt, sống bất khuất như xương rồng ngay cả trong trái tim người khác, mà tôi có lẽ là cô gái Lalla, yêu si mê và cuồng dại con người của cát, của sa mạc ấy bởi ngòi bút sinh động của J.M.G Le Clézio cất công tạo dựng. Một chiếc thân vô tình bị ngắt bỏ có thể mọc thành cây mới trên cát. Hay như người ta cắt một khúc xương rồng treo trước cửa nhà để trừ tà mà, màu xanh của cây cứ thế mà xanh mãi dù chẳng được chạm đất. Xương rồng ít khi phải đi tìm chiếc bóng của mình, dường như sự chết bất động ngay trên chính thân thể đầy gai nhọn. Bụi xương rồng trơ gan đứng giữa trảng cát không một bóng cây, cánh trắng nhụy xanh ngạo nghễ trong nắng hè.

Bên cây xương rồng rộ hoa giữa cồn cát trắng áo mây, tôi đánh rơi một nụ cười chìm sâu trong lòng cát Điền Lộc. Những khắc khoải trỗi dậy, vực cô đơn vào vòng xoáy kí ức mịt mù. Nhớ bước chân một người lặng lẽ đi trên cát, trong bóng nắng chiều với nụ cười mùa thu biển. Đêm Điền Lộc vội đến, tôi tạm biệt anh Trần Văn Liêm chạy xe dưới đôi hàng cây keo lai, ánh trăng thượng tuần leo lét thắp phía trời xa, nhuộm lên đôi cồn cát trắng xóa màu đêm. Hơi biển nồng ùa vào cánh mũi và theo trăng tan vào đáy mắt mằn mặn. Chợt nhớ câu thơ Xuân Quỳnh “Ngọn gió bỏng khi đi thành nỗi nhớ/ Cát khô cằn ở mãi hóa yêu thương”. Biển, trăng và cát, những thứ lặn tìm được dưới đáy cuộc người đầy vội vã, dìm quên đi những mộng ước trinh sơ ngày nào ánh trăng bạc duyền loang bên bến bãi, nơi cát chảy dài dưới chân và bờ môi ai ngọt lịm ru tôi ngủ quên ngày tháng.

bút ký của Lê Vũ Trường Giang

L.V.T.G
(SDB19/12-15)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.

  • VĨNH NGUYÊN                Truyện kýSau “vụ” gặp em, tôi băn khoăn lắm lắm. Là bởi trước đó - trước quả rốc-két mà chiếc F4H phóng xuống và em bị thương dưới đùi, em đang chờ tháo dây thuyền ở hốc đá, còn tôi thì giữ lấy ống ti-dô cho nước vào hai cái thùng phuy trên thuyền cho em. Hai chiếc thùng phuy 400 lít nước sắp tràn đầy. Như vậy là quá đủ thời gian cho chúng ta có thể hiểu biết về nhau, tên tuổi, quê hương bản quán.

  • ĐẶNG VĂN SỞ          Ghi chépKhông hiểu sao tôi lại đi tìm anh - anh Nguyễn Đức Thuận - người anh chú bác ruột cùng chung sống dưới một mái nhà với tôi. Tôi chỉ nhớ là hồi đó chồng của cô tôi nằm mơ thấy anh, và bác vào tận Nha Trang để đi tìm anh Mậu, người đồng đội và là người chứng kiến lúc chôn cất anh.

  • NGUYỄN QUANG HÀMột buổi sáng vợ chồng anh Thảo, chị Ái đang đèo nhau, phóng xe Honda trên đường Nguyễn Trãi, một con đường lớn của thành phố Huế, bỗng có một người lao thẳng vào xe anh Thảo. Nhờ tay lái thiện nghệ, nên anh Thảo đã phanh xe kịp. Hai vợ chồng dựng xe, ra đỡ nạn nhân dậy.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGBút kýAnh đã xứng đáng với danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân" của nhà nước ta phong tặng. Riêng Hội Nghệ sĩ điện ảnh Nhật Bản đã tặng cho anh giải thưởng vẻ vang dành cho người nghệ sĩ thuật lại sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh...

  • ĐÀO XUÂN QUÝĐã lâu lắm, có đến hơn hai năm, kể từ khi bị tai nạn ở chân tôi chưa đi vào các hiệu sách, kể cả các hiệu sách ở Nha Trang. Đi tới các hiệu sách thì xa quá, đi bộ thì không đi nổi, mệt và nóng lắm, mà đi xe thuê thì cũng khó, vì họ không phải chỉ đưa mình tới nơi mà còn phải đợi hàng giờ khi mình phải tìm chọn sách nơi này nơi nọ, quầy này quầy khác v.v...

  • NGUYỄN THANH CHÍHai mươi tám tuổi, nó không biết chữ và không quen đi dép, mặc áo quần dài; lầm lũi, ít nói nhưng rất khoẻ mạnh... Với nó rừng là nhà, các lối mòn trong rừng thì thuộc như lòng bàn tay... Đó là Trương Ngọc Hoàng, sinh năm 1977.

  • NGUYỄN TRỌNG BÍNHMọi chuyện xẩy ra suốt 55 ngày đêm ở đơn vị trong cuộc tổng tiến công nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi đều nhớ như in. Thế mà, lạ lùng thay, suốt thời gian đó, hàng ngày mình ăn thế nào, lại không nhớ nổi. Chỉ nhớ mang máng có lúc ăn cơm nắm, ăn lương khô. Về giấc ngủ, có thể là tranh thủ nửa ngủ nửa thức giữa 2 trận đánh hoặc lúc ngồi trên xe trong đội hình hành tiến. Cố hình dung, tôi nhớ được bữa cơm chiều ở dinh Độc Lập, hôm 30-4-1975.

  • NGÔ MINHỞ CỬA NGÕ XUÂN LỘCSư Đoàn 7 thuộc Quân Đoàn 4 của chúng tôi hành quân từ Bảo Lộc về ém quân trong một rừng chuối mênh mông, chuẩn bị tấn công cứ điểm Xuân Lộc, cửa ngõ Đông Bắc Sài Gòn, đúng đêm 1-4-1975.

  • HUỲNH KIM PHONG(Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền , thống nhất đất nước 30.4.1975 - 30.4.2005)

  • LÊ HOÀNG HẢICon người từ khi cảm nhận thế giới xung quanh là lúc cảm được sự xa vắng, ly biệt... Nhớ hồi thơ dại, đứng trên bến sông trước nhà nhìn sang Cồn Hến thấy sông rộng lắm cứ nghĩ khó mà bơi sang sông được. Mỗi lần đi bộ từ nhà lên cầu Gia Hội dù chỉ vài trăm mét nhưng lại cảm thấy rất xa. Càng lớn khôn cảm nhận về khoảng cách được rút ngắn. Nhưng lạ thay khoa học ngày càng khám phá không gian, vũ trụ thì chạm đến cõi vô cùng.

  • HỒ NGỌC PHÚTôi về lại Huế sau trận lụt tuy muộn nhưng khá lớn vào gần cuối tháng 12 năm 2004. Ngồi ở quán cà phê Sơn bên bờ chân cầu Trường Tiền, nhìn sông Hương vào lúc sáng sớm sao thấy khang khác, trong có vẻ như sáng hơn ngày thường.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGĐã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm thấy tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quãng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cánh hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.

  • NGUYỄN THẾ QUANG(Chuyện tình chưa kể của nhà thơ Hoàng Cầm)

  • VÕ NGỌC LANTôi sinh ra và lớn lên tại vùng Kim Long, một làng nhỏ thuộc vùng cận sơn, không xa Huế là bao. Bởi thuở nhỏ chỉ loanh quanh trong nhà, trong làng ít khi được “đi phố” nên đối với tôi, Huế là một cái gì thật xa cách, thật lạ lùng. Đến nỗi tôi có ý nghĩ buồn cười: “Huế là của người ta, của ai đó, chứ không phải là Huế của tôi”, ngôi chợ mái trường, một khoảng sông xanh ngắt và tiếng chuông chùa Linh Mụ... mấy thứ ấy mới là của tôi.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhân một lần ghé ngang Paris , võ sư người Huế Nguyễn Văn Dũng đã đi thăm sông Seine. Đứng lặng lẽ bên dòng sông thơ mộng bậc nhất nước Pháp, bỗng lòng ông nhớ sông Hương quá trời. Về lại Việt , ngồi bên bờ sông Hương, ông vẫn hãy còn thấy nhớ cồn cào cái dòng chảy thầm thì trong sương mù như một nhát cắt ngọt ngào giữa trái tim đa cảm.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTôi rẽ vào nhà Thiệp để đưa bé Miên Thảo đi học. Cô bé hét vang nhà để bắt tìm cho ra chiếc dép đi trời mưa lạc nơi đâu không biết. Miên Thảo mặc chiếc quần Jean xanh và khoác áo len đỏ, choàng một chiếc phu la cổ màu đen trông thật đỏm dáng.

  • NGUYỄN QUANG HÀSông Bồ là con sông không dài, nhưng đẹp ở về phía Bắc Huế. Phía tả ngạn, hữu ngạn vùng thượng lưu sông là hai huyện Phong Điền và Hương Trà, vùng hạ lưu sông chảy qua Quảng Điền rồi đổ vào phá Tam Giang. Làng xóm hai bên bờ sông khá trù mật.

  • MINH CHUYÊN (Tiếp Sông Hương số 12-2008)

  • MINH CHUYÊN (Tiếp theo và hết)