Không gian siêu hình trong Truyện Kiều

10:15 21/07/2015

TRẦN NGỌC HỒ TRƯỜNG

Khảo sát không gian Truyện Kiều, các nhà nghiên cứu đã khảo sát các không gian nhà chứa, tu hành, không gian họ Hoạn danh gia(1)... cũng như các tính chất, đặc điểm của các không gian trong tác phẩm như không gian lưu lạc, không gian giam hãm, không gian tha hương(2)... Điều này có nghĩa là các không gian được khảo sát là các không gian hiện thực, có thể quan sát được bằng giác quan.

Ảnh: internet

Trong khi đó, Truyện Kiều cũng như nhiều tác phẩm văn học trung đại khác không chỉ có các không gian hiện thực, hữu hình, trần thế mà còn có các không gian siêu hình (metaphysical setting) đầy trừu tượng, không rõ ràng, không thể quan sát được hình thể. Có sự tồn tại của không gian siêu hình trong các tác phẩm văn học trung đại là do cách nhìn, tư duy về thế giới của con người trung đại. Bên cạnh những con người hiện thực, trần thế và thế giới của họ, còn có các thế lực thuộc “những thế giới khác do ý thức tôn giáo và tín ngưỡng sinh ra”(3). Các thế giới hữu hình và vô hình này tương liên nhau. Thế giới tâm linh “chi phối”(4) con người trong thế giới hiện thực. Theo đó, Truyện Kiều không chỉ có không gian “cõi trần” mà còn có các không gian khác là cõi ma, cõi trời, cõi chiêm bao, không gian các kiếp và không gian âm phủ.
 

Kiều mơ Đạm Tiên - Ảnh: Tranh lụa của Trương Đình Quế

Cõi ma chính là không gian trú ngụ của hồn ma Đạm Tiên. Nhân vật thuộc cõi hư ảo này nói: Hàn gia ở mé tây thiên/ Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu. Theo âm dương ngũ hành hướng tây thuộc âm, hành dương, là cõi ma quái, hư lạnh, mang âm khí, là cõi của kẻ đã khuất. Hướng tây trong văn học trung đại thường được cảm nhận như là không gian của những điều huyền bí, gây sợ hãi và xa lạ. Cụ thể hơn, “mé tây thiên” này chính là bãi tha ma nơi Kiều đi tảo mộ. Đạm Tiên đã hiển linh ở bãi tha ma và nhân vật này nhắc lại với Kiều trong giấc chiêm bao là “Mới gặp nhau lúc ban ngày đã quên”. Lời Đạm Tiên nói về nơi trú ngụ của mình trùng hợp với miêu tả của Nguyễn Du về khung cảnh nơi tảo mộ: Bước lần theo ngọn tiểu khê/ Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh/ Nao nao dòng nước uốn quanh/ Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. “Mé tây thiên” cũng là hướng thời xưa người ta đặt nghĩa địa. Bãi tha ma được nói là có mồ vô chủ (Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm), có âm khí (Ở đây âm khí nặng nề) và bóng tà (Bóng chiều đã ngả, dặm về còn xa). Có sự tương liên, tương thông giữa kẻ ở cõi ma và kẻ sống, giữa hai cõi âm dương, giữa thế giới này và thế giới bên kia, nhất là khi kẻ sống và kẻ chết có mối “hữu tình”, đồng thanh khí. Do đó, Kiều mới nói, “Thác là thể phách còn là tinh anh/ Dễ hay tình lại gặp tình/ Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ”. Kẻ sống có một niềm tin là có thể gặp gỡ được với kẻ ở cõi chết. Và sự thật là Đạm Tiên đã hiển linh: Một lời nói chửa kịp thưa/ Chút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay/ Ào ào đổ lộc rung cây/ Ở trong dường có hương bay ít nhiều/ Dè chừng ngọn gió lần theo/ Dấu giày từng bước in rêu rành rành. Quan hệ giữa con người trong “cõi người ta” và cõi ma là gần gũi, thân tình (Chớ nề u hiển mới là chị em), có thể thông hiểu nhau (Sẵn đây ta kiếm một vài nén nhang/ Gọi là gặp gỡ giữa đường/ Họa là người dưới suối vàng biết cho). Phương tiện trung gian để giao tiếp với kẻ ở cõi ma là thi ca, nhang khói, lời khấn vái (Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương Lầm rầm khấn vái nhỏ to Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần). Gió cũng là phương tiện để đưa kẻ ở cõi bên kia trở về dương thế, như đã dẫn trên kia. Gió ở đây lạ, khác thường, bí ẩn (gió cuốn cờ, ào ào). Kẻ ở cõi ma, ở đây là Đạm Tiên, tồn tại như một con người, có thể đọc được cổ thi, thông hiểu chữ nghĩa. Đạm Tiên bình phẩm thơ Kiều làm ở bãi tha ma là “ném châu gieo vàng”; còn thơ Kiều làm trong chiêm bao là “tú khẩn cẩm tâm khác thường”. Họ đã lấy ngâm vịnh, thi văn để thông hiểu nhau, như những bậc tài hoa thời trung đại vẫn thường. Cõi ma không chỉ có Đạm Tiên mà còn có cả hội đoạn trường, có hội chủ, có các sinh hoạt thi văn, xướng họa (tập đoạn trường), nghĩa là có tổ chức, lớp lang. Không gian ma quái, huyền hoặc, thực và ảo, siêu hình và hiện thực, hữu hình và vô hình pha xen nhau ở ngay phần mở đầu của truyện đã tạo ra không khí ghê rợn, kinh khiếp, u minh, là dấu chỉ cho thấy Truyện Kiều không chỉ là truyện kể về thế giới hiện thực mà còn về các thế giới siêu hình.

Không gian siêu hình tiếp đến trong Truyện Kiều là cõi chiêm bao. Kiều có lúc nói về chiêm bao, cõi mộng:

- Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao

- Tưởng bây giờ là bao giờ
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao


Chiêm bao đối với Kiều một mặt là ảo ảnh, dễ tan biến nhưng mặt khác những gì thấy trong chiêm bao thật quý giá, đáng để suy nghĩ. Trong Truyện Kiều, có 4 lần Nguyễn Du mô tả giấc mộng và tất cả những gì được báo mộng đều linh ứng. Môtif báo mộng rất hay thường gặp trong văn học trung đại, đặc biệt là trong truyện truyền kỳ và tiểu thuyết chương hồi. Người trung đại tin vào điềm triệu, mộng triệu. Có khi họ xuất quân, đăng quang, khởi hành, xây cất... đều theo những điều được báo mộng. Người ta suy đoán cát hung, lành dữ từ mộng triệu. Thường thì trước những sự kiện lớn xảy ra cho một cá nhân, dòng họ sẽ có điều báo trước trong chiêm bao. Cũng thế, trong văn học trung đại, các nhà văn thường mô tả giấc mơ, lấy những điềm triệu trong mơ để thông báo tương lai của nhân vật, chứ không dựa vào các sự kiện, lôgic xã hội. Miêu tả giấc mộng do đó trở thành một phương tiện nghệ thuật phổ biến. Chiêm bao, giấc mơ không chỉ là hệ quả của một ám ảnh mà trong Truyện Kiều, đó còn là hệ quả của linh cảm. Một khi con người mang linh cảm về một điều gì đó chẳng lành, sẽ thấy điều đó trong chiêm bao. Kiều là nhân vật mang linh cảm, hay nói về những điều không chắc chắn, về sự bất an, hư vô của tương lai:

- Thấy người nằm đó biết sau thế nào

- Một dày một mỏng biết là có nên

- Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao


Những linh tính về sự bất an đó được gia cố bằng giấc chiêm bao gặp Đạm Tiên lần thứ nhất. Giấc mơ này chứng thực bước đầu cho linh cảm về sự đau khổ của đời mình. Cõi chiêm bao, sự báo mộng ở đây có giá trị như những chứng lý cho linh tính về tương lai. Cõi mộng vô thức trở thành không gian chứa những điều tiên tri. Kiều đã giải đoán điều đó sau giấc mơ lần thứ nhất gặp Đạm Tiên: Cứ trong mộng triệu mà suy/ Phận con thôi có ra gì mai sau. Ở lần thứ hai, Kiều gặp Đạm Tiên trong mơ sau khi tự vẫn ở lầu xanh (Trong mê dường đã đứng bên một nàng/ Rỉ rằng: “Nhân quả dở dang/ Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao/ Số còn nặng nghiệp má đào/ Người dù muốn quyết trời nào đã cho/ Hãy xin hết kiếp liễu bồ/ Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau). Kiều gọi giấc mơ này là “thần mộng” (Và trong thần mộng lấy lời) và tin vào lập luận về duyên kiếp, duyên nghiệp của Đạm Tiên. Ở đây lại xuất hiện môtif “đoán mộng”, “giải mộng”. Sau giấc mơ này, Kiều chấp nhận làm kỹ nữ. Quan niệm về nhân duyên, sự tiền định và số phận trở thành phương tiện hóa giải cho tình huống lúc đó. Giấc mơ lần thứ ba Kiều thấy Đạm Tiên có lời giải thích về thân phận hiện kiếp và tiên báo về một tương lai “phúc dày” và sau này, Kiều có cuộc đời như lời trong mộng (Mơ màng phách quế, hồn mai/ Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa/ Rằng: “Tôi đã có lòng chờ/ Mất công mười mấy năm thừa ở đây/ Chị sao phận mỏng phúc dày/ Kiếp xưa đã vậy, lòng này dễ ai/ Tâm thành đã thấu đến trời/ Bán mình là hiếu, cứu người là nhân/ Một niềm vì nước vì dân/ Âm công cất một đồng cân đã già/ Đoạn trường sổ rút tên ra/ Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau/ Còn nhiều hưởng thụ về sau/ Duyên xưa tròn trặn, phúc sau dồi dào). Tác động trực tiếp của giấc mơ này đến Kiều là làm nhân vật bâng khuâng, “ngơ ngẩn biết sao” và gián tiếp, tiếp thêm niềm hạnh phúc làm cho Kiều “mừng rỡ trăm bề” khi gặp lại sư Giác Duyên. Nhân vật hồn ma Đạm Tiên và những gì thấy trong ba giấc mơ ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý nhân vật. Lần thứ nhất, làm Kiều “rền rỉ trướng loan”, âu lo; lần thứ hai, góp phần đưa đến quyết định tồn tại ở lầu xanh và lần thứ ba, như đã nói, góp phần làm nàng “mừng rỡ”. Đây là vài ba lần mừng vui hiếm hoi của Kiều. Đạm Tiên chỉ hoạt động vào lúc chiều tà (ở bãi tha ma) (Tà tà bóng ngả về tây) và ban đêm, có trăng (lần thứ hai, Chênh chênh bóng nguyệt xế mành và lần thứ ba, ở sông Tiền Đường, lúc Mảnh trăng đã gác non đoài). Hồn ma này thông suốt mọi sự, có thể di chuyển tới mọi không gian, đeo bám, ám ảnh Kiều. Trong khi đó, Kiều gặp Đạm Tiên trong những trạng thái vừa tỉnh vừa mê, vừa có ý thức vừa vô thức. Ở giấc mơ lần thứ nhất là khi đang “thiu thiu” (Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu), lần thứ hai, gặp “trong mê” (Trong mê dường đã đứng bên một nàng), còn lần cuối cùng, Đạm Tiên đến lúc Kiều “thiêm thiếp giấc vàng” (Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai). Giấc mơ đã trở thành một môtif trong truyện. Giấc mơ thứ tư trong Truyện Kiều (Thúy Vân nằm mơ thấy chị) cũng nằm trong kiểu thức của môtif này. Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có tới 5 giấc mơ(5) nhưng Nguyễn Du đã lược bỏ đi giấc mơ Kiều gặp Kim Trọng. Đối với Nguyễn Du, giấc mơ mang tính thần bí, luôn gợi ra linh cảm, linh tính nào đó, là mộng triệu, do đó, giấc mơ đơn thuần, thông thường không có tính huyền bí như giấc mơ Kiều gặp Kim Trọng chưa đáp ứng được quan niệm của ông về sự siêu việt, khác lạ của cõi mộng nên đã bị lược bỏ. Cũng khác với Kim Vân Kiều truyện, Nguyễn Du đã không nói đến chi tiết nói Kiều sẽ gặp Đạm Tiên ở sông Tiền Đường trong giấc mơ lần thứ nhất, sau lễ tảo mộ mà dời chi tiết đó đến giấc mơ lần thứ hai ở lầu xanh Tú Bà. Sự di chuyển này thuyết phục hơn vì ở lần thứ nhất, Kiều vẫn đang sống trong không gian “êm đềm trướng rủ màn che”, chưa có dấu hiệu của sự lưu lạc, trong khi đó, ở giấc mơ gặp Đạm Tiên lần thứ hai, Kiều đã nổi nênh, việc di chuyển nơi chốn là khó tránh khỏi. Môtif giấc mơ cho thấy Nguyễn Du không chỉ mô tả ý thức mà còn đề cập đến linh cảm, linh thức, những trạng thái tâm lý thuộc về tiềm thức. Ông cũng mô tả cả ảo giác, một điều rất mới mẻ thời ấy, trong đoạn Kiều trao duyên. Giấc mơ là một mẫn gốc mà văn bản thuộc hàng đầu tiên đề cập đến là Kinh Thánh. Điều này mở ra một hướng tiếp cận nữa cho Truyện Kiều.

Ngoài cõi ma, cõi chiêm bao, Truyện Kiều còn có không gian các kiếp. Nguyễn Du hay nói đến kiếp, các kiếp: kiếp tu xưa, kiếp người, kiếp oan gia, kiếp phong trần, kiếp liễu bồ, kiếp này... Nguyễn Du và các nhân vật của ông tin vào sự tiền định, sự sắp đặt của một kiếp trước, của không gian tiền thân. Kim Trọng suy tư về duyên tiền định với Kiều ngay sau khi gặp gỡ (Ví chăng duyên nợ ba sinh/ Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi). Khi đến hiên Lãm Thúy, Kim Trọng cũng tin đó là do duyên ở kiếp trước (Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây). Theo đó, nhân vật tin rằng ở tiền kiếp đã có những bàn tay dàn xếp các quan hệ của con người. Kiếp trước là siêu hình nhưng có sức mạnh, có công năng quyết định. Đối với Kiều, kiếp này cũng đã được ấn định từ kiếp trước, do nhân quả, nghiệp duyên. Lời của Đạm Tiên trong các giấc mơ lần thứ nhất và thứ hai cho thấy điều đó. Ở đó, Đạm Tiên đều giải thích thân phận Kiều bằng ngôn ngữ Phật học (quả kiếp nhân duyên, nghiệp...). Kiều cho rằng kiếp này của mình còn nặng nợ, tức là tin vào nhân quả, quả kiếp. Do đó, Kiều đã tồn tại ở kiếp trước và đã có những hành động nào đó gây tai họa cho kiếp này, cần phải trả (Kiếp này trả nợ chưa xong). Ngay cả tài năng của Kiều cũng đã được hình thành từ kiếp trước, nhờ tu tề ở đó, như lời Kim Trọng ca ngợi tài thơ của Kiều (Kiếp tu xưa ví chưa dày/ Phúc nào đổi được giá này cho ngang). Đối với Kiều, kiếp này, theo dòng luân hồi, là kiếp đau khổ (Kiếp phong trần biết bao giờ cho thôi Kiếp người đã đến thế này thì thôi). Do “vụng đường tu” ở kiếp trước, nên Kiều đã chấp nhận và phải bù đền (Kiếp xưa đã vụng đường tu/ Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi). Đối với hầu như tất cả các đau đớn trong đời, Kiều đều giải thích, đều cho đó là do nghiệp duyên tiền kiếp (Đã đành túc trái tiền oan/ Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi). Không gian tiền kiếp, các hành động ở đó do vậy có vị trí lớn trong cách phân tích, giải thích số phận ở hiện kiếp. Tất nhiên, bên cạnh đó còn có “mệnh”, “số” của Nho giáo và các yếu tố khác của tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc Lão giáo phù thủy. Không chỉ có tiền kiếp, hiện kiếp, nhân vật còn tin vào một hậu kiếp. Kiều nghĩ đến tái sinh, đến kiếp lai sinh mai sau, ở đó được sống lại, dù bằng một hình tướng khác (Tái sinh chưa dứt hương thề/ Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai). Kiếp sau đối với Kiều lại là quả của kiếp này (Kiếp này trả nợ chưa xong/ Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau). Giữa các kiếp do đó có quan hệ tương liên, không tách rời nhau. Do nghiệp báo, kiếp này Kiều tai ương nhưng cũng ở kiếp này, nhờ hiếu mục, cứu người, tình nghĩa cao sâu (Bán mình là hiếu, cứu người là nhân (lời Đạm Tiên) và Hại một người cứu muôn người/ Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng (lời Tam Hợp đạo cô) nên Kiều được “nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau” và “phúc sau dồi dào”. Điều này có nghĩa là Kiều được sống một kiếp khác, mới mẻ, hạnh phúc ngay trong kiếp này. Ở đây, chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du được phát lộ. Ông để cho nhân vật trung tâm của mình viên mãn ngay lúc này mà không phải chờ một kiếp sau xa vời nào khác. Do đó, Kiều được đoàn viên, là phu nhân của một ông quan.

Một không gian siêu hình nữa trong Truyện Kiều là không gian âm phủ. Nguyễn Du còn gọi không gian này là tuyền đài, suối vàng, chín suối, địa ngục, cửu tuyền. Theo quan niệm của người trung đại, sau khi chết, người ta xuống âm phủ. Ở đó, vị vua cai quản có tên là Diêm Vương, có phán quan xét xử, có những kẻ thừa hành mệnh lệnh là ngưu đầu và mã diện (đầu trâu, mặt ngựa) và các thứ ngạ quỷ khác. Ở âm phủ cũng có sổ sinh tử ghi quê quán, hành tung, tội lỗi của kẻ chết, có lửa, vạc dầu, xiềng xích để trừng trị kẻ phạm tội. Cơ hồ như ở âm phủ, dù là cõi âm nhưng con người hình như vẫn còn sống và phải chịu các phán quyết, các hình thức trừng phạt. Trong Truyện Kiều, nhân vật Kiều nói giả như mình đã xuống âm phủ, vẫn mang trong lòng những tình cảm lúc còn tại thế (Nợ tình chưa trả cho ai/ Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan). Ở đó Kiều vẫn ôm ấp, nặng nợ, suy tư và mang theo những gì còn dang dở trên dương thế. Ở cõi âm, Kiều vẫn thấy được hả hê, mãn nguyện, hài lòng, nếu như Thúy Vân và Kim Trọng được hạnh phúc (Chị dù thịt nát xương tan/ Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây). Những điều này có nghĩa là các mối liên hệ với con người ở dương gian, với kẻ sống của kẻ ở âm phủ dường như không bị đứt đoạn, các âm vọng của các hành động, tình cảm ở trần thế vẫn được tiếp tục, vẫn còn dư vang. Ở âm phủ, kẻ chết vẫn còn cần đến sự cảm thông, hóa độ, an ủi, như lời Kiều nói với Vân: Dạ đài cách mặt khuất lời/ Rảy xin chén nước cho người thác oan. Tuy nhiên, dù xuống âm ty nhưng linh hồn kẻ chết vẫn không mất đi (Thác là thể phách, còn là tinh anh). Như thế, linh hồn, theo Nguyễn Du, là bất tử, vẫn luôn mang theo nó những ký ức, hoài niệm, vẫn còn có thể trở về với trần gian, như lời Kiều nói: Mai sau dù có bao giờ/ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này/ Trông ra ngọn cỏ lá cây/ Thấy hiu hiu gió thì hay chị về/ Hồn còn mang nặng lời thề/ Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Kẻ làm trung gian giữa cõi người và âm phủ trong Truyện Kiều là nhân vật đạo nhân. Vị này được nói là có khả năng thông huyền, phi phù trí quỷ, có thể xuất thần, đến được với cõi âm và cõi tiên: Gần miền nghe có một thầy/ Phi phù trí quỷ, cao tay thông huyền/ Trên tam đảo, dưới cửu tuyền/ Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng. Quả thật, ông ta đã đến được âm phủ khi “chưa tàn nén hương”: Đạo nhân phục trước tĩnh đàn/ Xuất thần giây phút, chưa tàn nén hương. Ở âm phủ, vị đạo sĩ này có một hành động đúng theo niềm tin dân gian là tra cứu sổ tử sinh. Sổ này là một danh sách có ghi tên kẻ tử sinh và hành trạng của họ. Việc họ không có mặt ở âm phủ, được rút tên ra hoặc không có trong đó nghĩa là họ vẫn còn sống. Khi trở về, vị đạo nhân này “minh bạch nói tường” là “Mặt nàng chẳng thấy, việc nàng đã tra”. Sự xuất hiện của nhân vật đạo sĩ với việc đốt hương, lập tĩnh đàn, “sắm sanh lễ vật” có liên quan đến tín ngưỡng lên đồng, nhập đồng và các thuật chú của dân gian và Lão giáo phù thủy. Lời vị đạo nhân sau khi vào âm phủ, cho biết Kiều chưa chết chỉ mắc nạn, Kiều và Thúc Sinh sẽ lại gặp nhau trong oái ăm sau đó đều chân xác.

Không gian siêu hình cuối cùng trong Truyện Kiều là cõi trời, với đấng ngự trị là ông trời. Trời trong Truyện Kiều còn được gọi bằng hóa công, con tạo, ông tơ... Thượng đế (tức trời) và do đó là cõi trời “là định đề của toàn bộ nhãn quan của con người trung đại về thế giới”(6). Trời trong Truyện Kiều có tính cách, có quyền uy vô lượng, sắp đặt và điều khiển mọi điều ở trần gian. Trời có thể cho tác hợp hay phân li (Ông tơ ghét bỏ chi nhau/ Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi), có thể ganh ghét (Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen), phũ phàng, vô tâm (Phũ phàng chi bất hóa công), ban phát tư chất (Thông minh vốn sẵn tính trời), tùy hứng, tùy ý (Khuôn thiêng dù phụ tấc thành/ Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời)... Trời là đối tượng để con người kêu than nỗi oan khốc (Oan này còn một kêu trời nhưng xa), là thế lực ấn định vận rủi may (Rủi may âu cũng sự trời). Thuộc về cõi trời còn có các tinh tú khác và chúng cũng chiếu ứng tới thân phận con người như trăng chẳng hạn: Trăng già độc địa làm sao/ Cầm dây chẳng lựa, buộc vào tự nhiên. Trăng ở đây là “nguyệt lão”, “nguyệt quái”. Trong Truyện Kiều, cõi trời với thế lực chính là ông trời và hành tung của ông ấy là “mệnh trời” chi phối phần lớn chủ đề, giọng điệu, số phận nhân vật, cách thức Nguyễn Du giải thích về cuộc đời. Dưới mệnh của trời, con người trở nên cực kỳ bé nhỏ, mong manh:

- Rằng tôi bèo bọt chút thân

- Rằng tôi chút phận đàn bà

- Thiếp như hoa đã lìa cành

- Nàng rằng chiếc bách sóng đào
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may.

- Nàng rằng: “Chút phận ngây thơ”.


Vì thế, con người trong Truyện Kiều không còn quyền tự quyết, mà bị định đoạt. Nguyễn Du khuyên người ta đừng “trách lẫn trời gần, trời xa” nhưng ông cũng không thôi tin vào khả năng của con người (Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều), bởi vì theo ông, con người có “thiện căn” (Thiện căn ở tại lòng ta).

Như vậy, Truyện Kiều không chỉ có thế giới hiện thực mà còn có các không gian siêu hình và các thế lực cư ngụ ở đó. Các thế lực này lập trình các sự kiện trong không gian hiện thực và các sự kiện này phải diễn ra theo những gì đã được ấn định. Do đó, con người và số phận của nó bị điều khiển bởi các thế lực siêu hình, không có quyền, có khả năng tự quyết. Ở đây đã xuất hiện tư tưởng tiền định và chủ đề về sự bất lực, bất túc của con người thời trung đại. Tất cả đều do “có trời”, do “con tạo”, duyên nghiệp... Các thế giới siêu hình và thế giới hiện thực không có sự tách bạch, biện biệt rõ ràng mà hòa lẫn, pha trộn vào nhau, tương tác nhau. Điều này cho thấy tư duy nguyên hợp, đa nguyên về thế giới của người trung đại. Cuộc đời do đó vừa hiện thực vừa thần bí, âm dương đan xen nhau. Các thế lực thuộc các không gian siêu hình đều hướng về thế giới hiện thực của con người để phán quyết, định đoạt, hành hạ nó. Con người do đó phải không ngừng tranh chấp với các thế lực đó để hiện hữu, để đòi quyền được hạnh phúc. Trong cuộc tranh chấp này, các giá trị nhân bản của Truyện Kiều đã được phát lộ ra. Trong quan hệ giữa cõi trần và các không gian siêu hình đều có các nhân vật trung gian. Đạm Tiên là trung gian giữa cõi người với cõi ma; đạo nhân nối âm phủ và dương gian; “mệnh trời” là gạch nối giữa cõi trời và trần thế còn giữa các kiếp lại có quan hệ tương liên chặt chẽ, trong đó nghiệp duyên, nghiệp báo, nhân quả có vai trò quan trọng. Lời nói, hành động của các nhân vật thuộc các không gian siêu hình có tác động quan trọng đến tâm lý, sự lựa chọn, hành động của các nhân vật thuộc thế giới hiện thực. Chúng là một trong các căn cứ để giải thích số phận, nội tâm nhân vật, đặc biệt là Kiều, chứ không chỉ có các yếu tố hiện thực, các nguyên nhân xã hội. Truyện Kiều như thế không chỉ là chuyện kể về trần gian mà còn là câu chuyện về các thế giới siêu hình vô ảnh.

T.N.H.T
(SH317/07-15)


................................................
(1) Lê Đình Kỵ, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, Hội nhà văn Tp. Hồ Chí Minh, 1992, tr 288 - 308.  
(2) Trần Đình Sử, Không gian nghệ thuật Truyện Kiều/ Trong sách Những thế giới nghệ thuật thơ,  Nxb. Giáo dục, H.,1997, tr 372 - 390.
(3) A. JA. Gurêvich, Những phạm trù văn hóa trung cổ, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Nxb. Giáo dục,  H.,1996, tr 73.
(4) Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb. Giáo dục, H.,2003, tr 52.  
(5) Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện, Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Khắc Khanh dịch, Nxb.  Đại học quốc gia Hà Nội, 1999.
(6) A. JA. Gurêvich, sđd, tr 7.   




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.