Không có Amêrica

09:33 09/06/2017

Lời dẫn: Cách đây 475 năm, vào ngày 22 tháng 2, tại thành phố Xenvia đã qua đời một người Italia tên Amêrigô, một người đã từng giong buồm liền 7 năm trời trên những vịnh ở phía Bắc và Tây châu Nam Mỹ.

Minh họa: Phạm Đại

Cách đây 480 năm, một người thợ vẽ bản đồ Đức tên là Vandêmuylơ đã phác ra một tấm bản đồ thế giới, trong đó ông đã gọi tên miền Nam của thế giới mới là Amêrica. Phải 31 năm sau cái tên này mới được các lái buôn dùng chính thức cho cả châu lục này.
Cách đây 495 năm, một người Italia tên là Côlumbus đã gặp những hòn đảo, mà cho đến khi chết ông ta vẫn đinh ninh rằng chúng thuộc vịnh Đông Ấn. Ông chưa hề đặt chân lên mảnh đất liền của châu lục mà ông đã tình cờ phát kiến ra này...



PETER BICHSEL
            (Đức)

Tôi đã được nghe câu chuyện sau đây từ miệng một người hay kể chuyện. Tôi đã nói đi nói lại rằng tôi không tin một chút nào ở câu chuyện của ông ta.

“Ông nói phét!”, tôi đã hét lên như vậy với ông ta, “Ông tưởng tượng, ông bịp bợm!...”

Ông bỏ ngoài tai mọi lời của tôi, và cứ thản nhiên kể chuyện tiếp.

Cho đến lúc tôi gào to: “Đồ bốc phét, đồ hoang tưởng, đồ bịp bợm!” - ông ta mới nhìn chằm chằm vào mặt tôi, lắc lắc đầu một cách buồn bã và nói khẽ vào tai tôi, khiến tôi cảm thấy xấu hổ: “Không có Amêrica đâu!”

Để an ủi, tôi hứa với ông ta là sẽ chép lại chuyện của ông: Chuyện xảy ra cách đây 500 năm, dưới triều một ông vua Tây Ban Nha. Cũng như mọi vương triều khác, vua cũng có một cung điện với rực rỡ những nhung lụa, vàng bạc, những mũ miện, đèn nến, những kẻ hầu người hạ cùng cung tần mỹ nữ... Trong cung cũng có những triều thần, tối tối lại ném găng xuống chân nhau đòi thách đấu, vì sáng hôm sau thì lăn xả vào nhau, bồi cho nhau những nhát gươm chí mạng. Rồi cũng có những lính gác trên chòi cao rúc tù và inh ỏi mỗi ngày. Những sứ giả hăm hở tung mình trên yên ngựa. Những bạn bè và những kẻ giả bạn bè của vua. Những phụ nữ đẹp xinh và nguy hiểm. Và rượu chảy tràn trề. Và thiên hạ đêm ngày xúm xít quanh cung điện, đó là những kẻ không biết làm gì ngoài việc tiêu tiền cho thỏa...

Cả vua cũng chẳng biết làm gì khác, ngoài việc ngày qua ngày cứ lặp đi lặp lại cuộc sống đó. Ngài chẳng cần biết thiên hạ sống ra sao, ồn ã huyên náo hay cực khổ bần hàn. Bởi vì ở Madrit, Bacxơlôna hay ở đâu đi nữa thì cuộc sống vẫn lặp đi lặp lại như vậy, khiến con người phát chán. Và người sống ở nơi khác thì cứ mơ tưởng rằng Bacxơlôna đẹp lắm, trong khi người ở Bacxơlôna lại chỉ mong được dời đi nơi khác...

Những thần dân khốn khổ tha hồ hình dung về cuộc sống sung sướng của đức vua, trong khi vẫn phải chịu đựng quan niệm của ngài, rằng với họ thì đói nghèo là đáng lắm...

Sáng sáng nhà vua cũng thức dậy, tối tối nhà vua cũng đi nằm. Suốt ngày ngài ngấy đến tận cổ bởi những chăm lo hầu hạ, bởi những bạc vàng nhung lụa, bởi những nến đèn. Giường của ngài vô cùng lộng lẫy, nhưng trên đó ngài còn biết làm gì khác ngoài việc ngủ?

Sáng sáng bọn hầu lại đến cúi rạp mình trước nhà vua, càng ngày chúng càng cúi thấp hơn, nhưng vua đã quá quen rồi, nên ngài cũng chẳng buồn nhìn. Kẻ dâng ngài chiếc dĩa, kẻ dâng ngài con dao, kẻ thì đẩy ghế hầu. Khi nói với vua, chúng luôn thưa: “Muôn tâu bệ hạ” và luôn dùng những lời vô cùng hoa mỹ, nhưng tất cả chỉ có thế.

Không ai dám nói với vua: “Mày là một thằng ngu”, và những lời họ nói với ngài hôm nay thì chính hôm qua họ đã dùng rồi.

Ngày tiếp ngày cứ thế...

Bởi vậy nhà vua phải có bọn hề. Chúng được phép làm những việc chúng muốn làm, được quyền nói những điều chúng thích nói, miễn là có thể khiến vua cười. Khi ngài không còn cười được với chúng, ngài sẽ hạ lệnh đem chúng đi giết hoặc đại loại như thế.

Rồi vua kiếm được một tên hề, tên này chuyên nói lái. Vua thấy rất khoái. Thay câu: “Muôn tâu bệ hạ”, gã nói: “Muôn hạ bệ tậu”, thay từ: “Hoàng cung”, gã nói: “Cùng hoang”, và thay cho: “Xin chào”, gã lại nói: “Chao xìn”.

Tôi cho đó chỉ là một trò ngớ ngẩn, nhưng nhà vua cứ thấy thích, ngài rất vui như thế suốt một nửa năm trời, cho đến tận ngày mồng bảy tháng bảy. Nhưng ngày mồng tám, khi ngài ngủ dậy thì tên hề đến chào: “Muôn hạ bệ tậu, chao xìn”, thì ngài thét: “Đem chém cổ thằng hề cho ta!”.

Một thằng hề khác, thằng Pêpê béo lùn thì chỉ làm vua vui được có bốn ngày. Thằng này đã gây cười cho vua bằng cách bôi mật ong lên ghế ngồi của tất cả các quan bà quan ông, đủ các tước công hầu bá tử... Ngày thứ tư gã bôi mật ong vào ghế của vua, lần này vua không cười và thế là Pêpê chẳng còn là thằng hề nữa.

Sau đó vua cho một thằng hề khủng khiếp nhất thế giới. Nó xấu xí, người mỏng dính nhưng lại to bè. Chân trái nó quặp lại hình chữ O. Không ai hiểu là nó biết nói nhưng cố tình không nói, hay nó câm thật. Ánh mắt của nó đến dữ tợn, bộ mặt của nó đến gớm ghiếc. Cái đáng yêu duy nhất ở nó chỉ là cái tên: Nó tên là Hanxơ bé bỏng.

Khủng khiếp nhất ở nó là cái cười. Thoạt tiên thì khe khẽ, khùng khục trong bụng, rồi cứ ùng ục ùng ục trào dần lên, khiến mặt nó đỏ nhừ. Cuối cùng thì tiếng cười bục vỡ, nó hét lên, nhảy nhót và cười tràn. Chỉ có đức vua là thích, còn mọi người thì tái mặt, kinh sợ đến phát run. Khi những người dân sống quanh cung nghe thấy tiếng cười, họ vội chốt kín tất cả cửa lớn cửa nhỏ, bế vội con cái vào giường và lấy sáp ong bịt tai chúng lại.

Như đã nói, tiếng cười của Hanxơ bé bỏng là cái khủng khiếp nhất mà nó có. Vua có thể nói bất cứ điều gì ngài muốn, và Hanxơ bé bỏng cười. Cho dù vua nói một điều chẳng khiến ai cười nổi thì Hanxơ bé bỏng vẫn cứ cười. Rồi đến một hôm vua bỗng bảo: “Hanxơ bé bỏng, ta sẽ treo cổ ngươi”, Hanxơ bé bỏng lại cười, cười rung lên hơn bất cứ bao giờ.

Vua quyết định ngày mai treo cổ Hanxơ bé bỏng. Ngài cho dựng giá treo cổ, và đây không phải là chuyện đùa: ngài còn muốn nghe Hanxơ bé bỏng cười trước giá treo cổ nữa. Ngài hạ lệnh cho dân chúng phải đến xem trò man rợ này. Nhưng dân khóa kín cửa nhà và trốn biệt hết, nên sáng đó chỉ có mặt vua, gã đao phủ, mấy tên hầu và Hanxơ bé bỏng thì cười suốt.

Vua quát bọn hầu: “Hãy đi lôi dân chúng đến đây!” Bọn hầu lục tìm khắp thành phố, nhưng chẳng kiếm được một ai. Vua tức điên người, còn Hanxơ bé bỏng càng cười to.

Cuối cùng bọn hầu bắt được một thằng bé con và lôi nó đến. Thằng bé gầy gò, xanh xao và sợ hãi. Vua chỉ lên giá treo cổ, bắt nó phải xem. Thằng bé nhìn lên chiếc giá rồi bật cười. Nó vỗ tay khoái trá và nói to:

“Ngài đúng thực là một ông vua, vì ngài đã làm chiếc ghế nhỏ kia cho lũ chim bồ câu. Ngài nhìn xem kia, hai con bồ câu đã đến đậu rồi.”

“Mày là thằng ngu”, vua nói, “tên mày là gì?”

“Tôi là thằng ngu, thưa đức vua, tên tôi là Côlômbô, nhưng mẹ tôi vẫn gọi là Côlômbin.”

“Thằng ngu”, vua nói tiếp, “ở đó sẽ treo cổ một người.”

“Người ấy tên là gì?”, Côlômbin hỏi. Khi nghe xong tên, nó nói: “ôi, Hanxơ bé bỏng, một cái tên đẹp biết bao. Sao người ta lại nỡ treo cổ một người có tên đẹp như thế?”

“Nhưng nó cười khủng khiếp lắm”, vua nói. Rồi ngài hạ lệnh cho Hanxơ bé bỏng cười, và Hanxơ bé bỏng lại cười, còn khủng khiếp gấp hai lần hôm qua.

Côlômbin ngạc nhiên: “Thưa đức vua, ngài thấy thế là khủng khiếp ư?” Vua còn chưa biết trả lời ra sao, thì Côlômbin lại tiếp: “Tuy tôi không thích tiếng cười này lắm, nhưng lũ chim bồ câu vẫn đậu trên giá kia kìa. Chúng không sợ, vì chúng không thấy tiếng cười là khủng khiếp. Bồ câu có tai nghe tuyệt vời. Phải thả Hanxơ bé bỏng thôi”.

Vua nghĩ một lát rồi nói: “Hanxơ bé bỏng, thôi thì quỷ tha ma bắt mày đi.”

Lần đầu tiên trong đời, Hanxơ bé bỏng nói một lời. Nó nói với Côlômbin: “Cảm ơn!”, và cười với một cái cười rất đẹp của con người rồi bỏ đi.

Từ bữa đó vua không còn thằng hề nào nữa.

“Hãy theo ta”, vua nói với Côlômbin.

Kẻ hầu người hạ, cung tần mỹ nữ và các hoàng thân quốc thích đều nghĩ Côlômbin là thằng hề mới. Nhưng Côlômbin đâu có vui tính. Nó cứ đứng trân trân, mắt trố nhìn, rất ít khi cất lời, còn cười to thì tuyệt đối không bao giờ. Nó chỉ mỉm cười, nhưng chẳng làm ai cười theo.

“Nó không phải là hề, nó là thằng ngu”, mọi người nói vậy. Côlômbin cũng nói: “Tôi không phải là hề, tôi là thằng ngu.”

Thiên hạ cười mũi nó.

Giá biết điều này, chắc chắn vua sẽ rất tức giận. Nhưng Côlômbin chẳng kể với vua một lời, vì biết rằng dù sao cũng không thoát bị thiên hạ cười nhạo.

Trong triều có đủ cả: người khỏe mạnh, kẻ yếu hèn. Vua thì vẫn là vua, các phu nhân vẫn đẹp mê hồn, các ông chồng vẫn quả cảm, các thầy tu vẫn ngoan đạo và các đầu bếp vẫn chăm chỉ. Riêng Côlômbin vẫn chẳng là cái quái gì hết.

Nếu có ai nói: “Ê, Côlômbin, lại đây đánh nhau với tao”, thì Côlômbin đáp: “Tôi yếu hơn ngài rồi”.

Nếu có ai nói: “Hai nhân bảy bằng bao nhiêu?”, thì Côlômbin đáp: “Tôi dốt hơn ngài.”

Nếu có ai lại hỏi: “Mày có tin là mày nhảy nổi qua cái rãnh này không?”, thì Côlômbin trả lời ngay: “Tôi không tin.”

Và khi vua hỏi: “Côlômbin, mày muốn trở thành gì?”, thì Côlômbin đáp: “Tôi chẳng muốn trở thành gì hết, tôi đã là và sẽ chỉ là Côlômbin”. Vua nói: “Nhưng mày vẫn phải trở thành một ai đó”, thế là Côlômbin hỏi lại: “Người ta có thể trở thành ai?”

Vua giải thích: “Có những người đàn ông có râu ria, mắt xạm nâu, đó là những thủy thủ. Họ muốn thành thủy thủ và họ đã trở thành thủy thủ. Họ giong buồm ngoài biển khơi và học tìm đất đai mới cho nhà vua của họ.”

“Thưa đức vua, nếu ngài muốn” Côlômbin nói, “tôi sẽ trở thành thủy thủ.” Cả triều đình đều cười rộ lên khi nghe thấy thế. Nhưng Côlômbin thì chạy đi luôn. Nó lao khỏi cung điện, miệng hét to: “Tôi sẽ tìm ra đất mới, tôi sẽ tìm ra đất mới...” Mọi người nhìn theo nó lắc đầu. Còn nó thì chạy khỏi lâu đài, lao qua thành phố, ra thẳng những cánh đồng. Nó hét to với những người nông dân đang đứng sững trên ruộng và ngạc nhiên nhìn theo nó: “Tôi sẽ tìm ra đất mới! Tôi sẽ tìm ra đất mới!”

Nó chạy vào rừng sâu và trốn biệt trong những bụi cây hàng mấy tuần lễ liền. Suốt mấy tuần đó, không ai nghe nói gì về Côlômbin hết. Vua đâm buồn và trở nên cáu bẳn. Các quan triều đều ngượng ngùng vì đã chót cười nhạo Côlômbin.

Nhưng rồi tất cả lại vui lên, vì sau mấy tuần lễ, trên chòi cao lại lảnh lói tiếng tù và, và Côlômbin bỗng từ những cánh đồng xa chạy về. Nó lao qua thành phố, băng khỏi cổng thành, tới thẳng trước mặt vua và tâu rằng: “Thưa đức vua, Côlômbin này đã tìm ra đất mới!”

Các quan triều không muốn cười nhạo Côlômbin nữa nên cố làm mặt nghiêm mà hỏi lại: “Đất ấy tên là gì? Nó nằm ở đâu?” “Nó chưa có tên, vì tôi mới tìm ra. Nó nằm xa tít ngoài biển khơi kia kìa!”, Côlômbin đáp.

Thế là một thủy thủ rậm râu đứng phắt ngay dậy nói: “Tốt lắm, Côlômbin, ta là Amêrigô Vespuxi, ta sẽ đi tìm đất ấy. Hãy nói cho ta hay, nó nằm ở đâu?”

“Ông cứ đi thẳng ra biển, và đi thẳng mãi cho đến khi tới đó. Miễn là ông không được phép nghi ngờ!”, Côlômbin đáp, nhưng nó rất sợ, vì biết rằng mình chỉ là một tên bịp, còn mảnh đất kia thì làm quái gì có... Nó lo lắng đến mất ăn mất ngủ.

Còn Amêrigô Vespuxi thì lập tức lên đường đi tìm.

Không ai biết ông ta đi đâu. Rất có thể ông ta cũng trốn biệt vào một rừng cây nào đó.

Nhưng rồi tù và lại rúc vang, và Amêrigô đã quay về.

Côlômbin đỏ chín mặt, không dám nhìn người thủy thủ. Còn Vespuxi thì ra mắt đức vua, nháy mắt nhìn Côlômbin, hít một hơi thật dài, lại nháy mắt nhìn Côlômbin một lần nữa, rồi nói thật to và rành rọt, khiến mọi người đều nghe rõ không sót một lời: “Thưa đức vua, đất ấy quả là có thật!”

Côlômbin sướng quá, vì thế là Vespuxi đã không hại mình. Nó lao ngay đến, ôm chầm lấy ông ta, miệng reo to: “Amêrigô, Amêrigô thân yêu của tôi!”

Còn thiên hạ thì cứ nghĩ rằng đó là tên của mảnh đất ấy. Và họ gọi luôn tên của mảnh đất không hề có ấy là “Amêrica”

“Bây giờ người đã xứng là một người đàn ông”, vua nói với Côlômbin, “từ nay tên người sẽ là Côlômbus.”

Vậy là Côlômbus trở nên nổi tiếng. Thiên hạ nhìn nó trầm trồ thán phục; “Người này đã phát kiến ra Amêrica”.

Ai cũng tin là có Amêrica, chỉ riêng Côlômbus là vẫn không dám chắc. Suốt đời nó cứ ôm mãi mối nghi hoặc ấy, nhưng không dám hỏi người thủy thủ kia về sự thật.

Rồi ngày càng nhiều người kéo nhau đi Amêrica, và khi về họ đều khẳng định: “Có Amêrica thật!”

“Còn riêng tôi”, người kể chuyện này cho tôi nói, “tôi chưa bao giờ tới Amêrica. Tôi không biết liệu có Amêrica thật không. Có thể mọi người chỉ nói vậy để cho Côlômbin khỏi thất vọng. Bởi vì cho đến tận ngày nay, nếu cứ hai người nào kể chuyện với nhau về Amêrica, thì họ đều luôn nháy mắt với nhau, và hầu như họ không hề nói Amêrica, mà chỉ nói mập mờ về "các xứ ấy", hoặc "bên ấy", hoặc "đại loại như thế.”

Có thể có những người muốn đi Amêrica, bằng tàu thủy hoặc máy bay, nhưng do được nghe kể về câu chuyện Côlômbin, nên đã trốn biệt đi đâu đó, rồi khi quay về cũng thao thao bất tuyệt về những gã cao bồi và những nhà cao chọc trời, về thác Niagara và sông Mixixipi, về Niuyooc và Săng Phrăngxixcô...

Bao giờ họ cũng chỉ kể đi kể lại những điều giống hệt nhau mà họ biết thừa từ trước khi đi. Rõ ràng đó là điều rất đáng nghi ngờ...

Và thiên hạ vẫn còn luôn tranh cãi với nhau rằng thực ra thì Côlômbus là ai. Nhưng tôi thì tôi biết thừa đi rồi!..."

NGUYỄN KHẮC KHOA dịch
(TCSH42/04&05-1990)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.

  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.

  • YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.

  • KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.

  • KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.