Minh họa: Bửu Chỉ
Trong đầu Hiếu như có một khối u lớn lắc lư, chao đảo, nặng nề. Khối u ấy từng lúc lớn dần lên, xâm chiếm hết mọi ý nghĩ của Hiếu … Anh lắc mạnh đầu để định thần. Nhắm mắt lại, Hiếu thấy những tia sáng đủ màu nở tung tóe từ một cục than cháy đỏ cứ lớn mãi, lớn mãi… Hai bức màn đã ngả màu kéo sát vào nhau che kín gian giữa ngôi nhà dùng làm nơi thờ phụng. Phía trong cùng của gian giữa ấy là bàn thờ cha Hiếu. Ông Thiệt chết nhưng không để lại tấm ảnh nào. Thay cho chân dung ông là một khối gỗ hình tháp được phủ quanh bởi một tấm khăn nhiễu điều. Màu tấm khăn đỏ rực như cục than trong đầu Hiếu … Anh thấy đầu mình đang nóng ran như trong một cơn sốt váng vất. Mà Hiếu đang sốt thật. Đầu anh ai đã đeo chì vào đó. Hiếu không nhớ rõ từ lúc nào trong đầu hiện diện cái khối u đỏ quái ác ấy. Cứ đến lúc người ta bàn tán nhiều về chuyện trầm thì cái khối đó lại hiện lên. Hiếu đang khổ sở vì cục than cháy đỏ trong đầu… Suốt mấy đêm ở dưới phố, Hiếu không làm sao chợp mắt được. Trừ những ngày lễ hay kỵ giỗ, chẳng mấy khi bà Thiệt cất tấm khăn điều ra khỏi khối gỗ thờ chồng. Đối với Hiếu, bên trong khối gỗ ấy chứa đựng biết bao nhiêu điều kỳ bí mà Hiếu chưa thể giải thích được. Để khối hình bầu dục được đẽo gọt cẩn thận nhưng bên trên thì hầu như không có sự trau chuốt của bàn tay con người. Những khi vào thắp hương cho cha rồi chăm chú nhìn khối gỗ đã lên nước đen bóng, trí tưởng của Hiếu lại chồng chất lên nhau biết bao hình thù mà Hiếu đã từng bắt gặp ở đâu đó. Không có một hình ảnh nào đọng lại lâu để có thể xác định được rằng khối gỗ ấy nhằm biểu hiện một cái gì. Có khi nó là những đốt xương được đặt chồng lên nhau không tuân theo một trật tự nào và vì thế nó mang một hàm ý bí hiểm luôn gây nên sự tò mò. Có khi nó giống những cột thạch nhũ đang cao dần lên mãi hoặc trông tựa những vách đá dựng đứng giữa trời để thách thức gió mưa… Hồi chưa lớn lắm, có một lần mải nhìn khối gỗ, mặt Hiếu ghé sát vào nó lúc nào không hay. Một thứ hương thơm phảng phất trong gian thờ mà thoạt tiên Hiếu ngỡ là của nhang khói đang nghi ngút cháy. Nhưng rồi Hiếu đã nhận ra đó là một mùi hương rất lạ… Như bị lôi cuốn bởi một sức mạnh huyền bí, bất giác Hiếu đưa tay gõ nhẹ vào khối gỗ làm phát ra một tiếng kêu khô và chắc. Từ đầu ngón tay như có một luồng điện truyền nhanh qua các mạch máu rồi lan khắp cơ thể. Hiếu rùng mình bởi một cảm giác rờn rợn pha lẫn giữa kinh ngạc và sợ hãi. Hiếu rụt tay lại và thấy trước mắt khối gỗ bỗng nhòa đi. Anh nhớ lại hình ảnh của một ngôi nhà bằng cát được trẻ con xây lên rồi sóng biển ùa vào cuốn trôi tất cả. Sau lần đó, mỗi khi vào đứng trước bàn thờ cha, với tất cả vẻ trang nghiêm và tôn kính Hiếu cố tìm lại mùi hương kỳ lạ ấy. Một đôi lần, bằng một cảm giác nào đó thật mơ hồ, Hiếu nghe mùi hương quanh quẩn bay. Như một người vừa phát hiện ra vẻ đẹp kỳ diệu của một tác phẩm điêu khắc đầy ẩn ý, Hiếu chỉ đứng chiêm ngưỡng khối gỗ từ xa mà không hề có ý nghĩ rằng sẽ sờ tay vào nó thêm một lần nữa. Lớn lên, Hiếu vẫn không hiểu thật rõ vì sao trong khối gỗ vô tri ấy lại tiềm ẩn một sợi dây vô hình mà luôn luôn sống động, đã nối chặt vào nơi sâu kín trong tâm hồn Hiếu một cái gì đó thật thiêng liêng… Những năm chưa thoát ly lên rừng, mỗi lần thấy mẹ đứng trầm ngâm trước khối gỗ, lòng Hiếu lại lắng xuống và khi ấy anh cố hình dung về người cha đã khuất. Chỉ tiếc ngày ông Thiệt hy sinh, Hiếu chưa đủ trí khôn để ghi nhận hình ảnh của cha cho trọn vẹn. Bằng linh cảm, Hiếu thừa nhận sự tồn tại của khối gỗ khác với những đồ vật hiện hữu trong ngôi nhà mình. Khối gỗ là một cái gì khác thường… Khối gỗ có tấm khăn nhiễu đỏ phủ kín… Màu khăn như cục than đang cháy trong đầu Hiếu. Qua con dốc thứ hai, đầu Hiếu muốn chúi về phía trước. Khối gỗ lại hiện ra và nặng như đá. Đầu gối Hiếu đã mỏi nhừ nhưng anh không muốn nghỉ. Từ đây về đến nhà, Hiếu phải leo thêm bốn con dốc nữa. Nhà Hiếu ở tận cuối làng. Hiếu nhớ con đường từ bến đò xóm Thượng dẫn về nhà mình trước đây chỉ lưa thưa vài chục mái tranh nằm cheo leo giữa một vùng đồi rộng và dài hút tầm mắt, bây giờ đã có nhiều hàng quán mọc lên dọc theo hai bên đoạn đường này để làm nơi nghỉ chân cho dân đi trầm và bọn lái. Chiều chiều, dân tứ chiếng từ rừng về, từ phố lên tụ tập mua và nghe ngóng tình hình. Những cuộc say có thể kéo dài tới khuya sau một chuyến đi may mắn. Dưới gốc cổ thụ nơi ngã ba đường, không biết từ lúc nào trở thành nơi cúng tạ cố mệ… Từ độ người ta đổ xô nhau lên rừng tìm trầm, thanh niên trong làng Hiếu cũng thưa dần đi. Riêng Hiếu thì không lúc nào được yên. Sau nhiều lần âm thầm dò hỏi, Hiếu biết được giá trị của khối gỗ mà mẹ con anh đang có. Bây giờ, con nít còn thò lò mũi ở làng Hiếu cũng đã nói chuyện đi trầm. Làm sao Hiếu ngồi yên được khi cả làng như đang lên cơn sốt… Người đi rừng cả chục năm chưa chắc được cố mệ cho một cội tốt như loại của nhà Hiếu. Đi đâu, Hiếu cũng nghĩ về khối trầm. Những khi nghe rừng động lâu ngày hoặc hàng đang khan Hiếu lại càng lo lắng. Đôi khi đang làm việc, Hiếu chợt giật mình nhớ tới khối gỗ đang nằm trong ngôi nhà vắng. Mấy hôm ở dưới phố Hiếu sốt ruột mong mau xong việc để lên nhà. Một mình bà Thiệt giữa đêm hôm mà cửa ngõ nhà Hiếu có lấy gì làm chắc. Dạo gần đây, đi đâu khoảng vài ba ngày là lòng Hiếu cồn cào khó chịu. Về đến nhà việc đầu tiên là Hiếu đến vén bức màn lên để nhìn vào bàn thờ cha. Mỗi ngày, Hiếu nhìn vào đó không biết bao nhiêu lần nhưng tuyệt nhiên không có lần nào Hiếu nghe trở lại mùi hương phảng phất trước đây. Lâu dần Hiếu không còn quan tâm đến điều đó nữa. Nhưng bà Thiệt thì chú ý cử chỉ lạ lùng của Hiếu. Có điều bà chẳng hề nói gì. Hiếu lấy làm lạ vì không nghe mẹ nói tới khối trầm quý giá. Bà như không biết rằng giá trầm đang tăng lên vùn vụt và khối gỗ trở thành nỗi lo của Hiếu … Giữ của quý trong nhà thật đúng là của nợ, Hiếu nghĩ vậy và định bụng sẽ nói với mẹ về điều lo lắng của mình.
Lên đến lưng chừng con dốc thứ ba, Hiếu thấy đất dưới chân như đang trượt đi. Một cơn lạnh chạy dọc sống lưng làm Hiếu nghĩ ngay đến cơn sốt rét rừng thỉnh thoảng vẫn trở lại hành hạ Hiếu. Nếu là sốt rét thì mình cũng không lo lắm. Sẽ qua ngay thôi. Hiếu tự nhủ rồi bấm mấy đầu ngón chân cố dấn bước. - Chú Hiếu! Tiếng gọi bất ngờ làm Hiếu giật nẩy người. Hiếu quay lại và thấy lão Tưng đang khật khà khật khượng. - Đi đâu mà vội thế… Vào đây, làm một ly rồi về… chú! Giọng lão Tưng lè nhè. - Dạ, cho cháu xin khi khác. Cháu đang mệt lắm, phải về ngay thôi… Hiếu gỡ bàn tay hộ pháp của lão ra khỏi vai mình. - Không được… chú phải vào đây đã. Mụ Mập ơi, lấy thêm cái ly… Lão Tưng không chịu buông. Thấy giằng co giữa đường không tiện, Hiếu thấp giọng một lần nữa: - Cháu đang sốt mà trời thì tối rồi! Để mai vậy. - Đã bảo không được là không được. Bộ chú không muốn ăn mừng với tôi à?... Nhờ ơn cố mệ, tôi vừa kiếm được chút ít… Hà, hà… lão già này còn say dài dài… Nói thiệt, chú cũng nên đi một chuyến… - Bác nói thế chứ sức vóc như cháu thì làm gì được. - Ấy, sao lại không? Chú không đi xâu như tôi được thì có cách khác. Làm việc như chú, kiếm cái giấy có khó gì. Sống nhờ vào ba đồng lương nhà nước biết đến bao giờ cho hết cực. Hiếu bắt đầu ngờ ngợ. Ai bảo giọng lưỡi ấy là của người say? Lần trước gặp lão, Hiếu cũng đã nghe lão nói thế. - Cũng khó chứ bác! Nói vậy chứ ai làm việc cho bây giờ? Hiếu trả lời để thăm dò. - Dào, khó gì chuyện ấy. Cái quan trọng là ở đây này! Lão vừa cười vừa vỗ vỗ vào túi áo. Giằng mạnh khỏi tay lão Tưng, Hiếu cắm đầu bước. Nếu không vì có họ hàng xa Hiếu đã cho lão một đạp nên thân. Lão Tưng đứng tựa lưng vào cửa quán nói với theo một cách hằn học: - Hừ, danh giá gớm! Gì chứ giữ thứ ấy thì như giữ của nợ thôi con à! Hiếu bỗng chột dạ. Lão bảo cái gì là của nợ? Ai thắp lại cục than trong đầu mình rồi. Đoạn đường trước mắt như muốn dài thêm. Hiếu nhấc chân không muốn nổi, mấy lần anh suýt đâm vào bụi cây bên đường. Lão già ma ám này có gì mà nói bóng nói gió như thế. Ôi chao, cục than quái quỷ ở trong đầu… *** Xô cánh cửa bước vào nhà, Hiếu thấy phía sau bức màn ngọn đèn dầu đang cháy tù mù. Vén bức màn lên, dụi mắt đến lần thứ hai Hiếu vẫn chưa tin là khối trầm đã biến mất, dưới bát hương đang tỏa khói, tấm khăn đỏ đã được xếp ngay ngắn. Hiếu cầm tấm khăn chạy bổ trở ra. Vừa lúc bà Thiệt từ dưới bếp đi lên. - Mẹ bán được mấy? Hiếu hỏi như người hụt hơi. Bất ngờ trước câu hỏi của con, bà Thiệt sững sờ nhìn Hiếu. Nhưng bộ mặt thất thần và chiếc khăn trên tay Hiếu giúp bà hiểu ra mọi chuyện. Hiếu đợi mẹ trả lời vừa cố nghĩ xem mẹ đã bán khối trầm cho ai. Hiếu vừa lo vừa bực. Mẹ có biết gì về giá cả đâu mà đem bán khối trầm ấy đi. Ma xui hay sao mà mình về chậm thế này… Bà Thiệt vẫn lắng thinh bất động. Tự nhiên Hiếu đâm hoảng trước thái độ của mẹ. Tai Hiếu ù lên và văng vẳng tiếng cười của lão Tưng… Bao nhiêu dự định của Hiếu phút chốc đã tan thành mây khói. Cổ họng Hiếu muốn kêu lên một tiếng nhưng không được… Những đêm dưới phố, Hiếu đã tính toán kỹ mọi chuyện cả rồi. Hiếu định chuyến này lên sẽ bàn với mẹ gọi người tới bán khối trầm. Có bao nhiêu việc cần đến tiền mà Hiếu không thể xoay ở đâu ra. Bán đi, vừa được tiền vừa khỏi lo mất… Cục than trong đầu đang nhảy nhót và chực nhảy ra ngoài… Khối trầm bây giờ ở đâu? Hiếu cố suy nghĩ. Sau khi bán khối trầm xong, Hiếu tính sẽ mua một cái bài vị để thờ cha. Chuyện thờ phụng thì cốt ở tấm lòng mình nghĩ đến chứ quan trọng gì ở mấy thứ đồ thờ. Mà cũng thật lạ đời khi người ta đang sẵn sàng bỏ xác vì trầm còn mình thì nơm nớp giữ của … Hiếu định thuyết phục mẹ bằng những lý lẽ ấy … Hiếu vò chiếc khăn đỏ ở trong tay… - Mẹ cất rồi… Nhà cửa mình vắng vẻ quá! Cuối cùng bà Thiệt đã lên tiếng. Hiếu cố giấu một tiếng thở mạnh ở trong lồng ngực. Không khí lại im lặng thêm một lúc. Yên tâm vì khối trầm không mất, Hiếu lẳng lặng ngồi xuống tấm phản. Bà Thiệt bước vào gian thờ thắp hương cho chồng. Trong thâm tâm Hiếu mong mẹ sẽ nói điều ấy ra. Cái điều mà lâu nay làm Hiếu mất ăn mất ngủ. Rồi Hiếu sẽ trình bày với mẹ tất cả dự định của mình. - Hôm qua, thằng Vui con chú Sáu đi trầm về báo với mẹ là nó tình cờ tìm thấy mộ cha con… giọng bà Thiệt vọng ra, cố giấu một nỗi xúc động. Bất giác, Hiếu quay mặt lặng nhìn vào bàn thờ. Hiếu nghe mẹ đang lầm bầm những câu gì không rõ. Cái tin quá bất ngờ. Hiếu không biết nói gì mặc dù anh rất muốn bày tỏ một nỗi cảm xúc vừa trỗi dậy trong lòng mình. Khi bà Thiệt bước ra, Hiếu thấy trong ánh mắt mẹ long lanh giọt nước mắt. Hiếu hiểu đó là niềm vui của mẹ anh. Hiếu nhớ, cũng ánh mắt ấy đã nhìn anh trở về, đón nhận anh trong ngôi nhà yên ấm này. Mới đó mà đã gần mười năm rồi. Ngày ấy, khi mẹ Hiếu khóc mừng anh nguyên vẹn thì anh cũng nhận ra một nỗi mất mát không thể nào bù đắp được trong cuộc đời của mẹ. Ông Thiệt hy sinh khi Hiếu còn nhỏ dại. Ông ra đi không gặp mặt vợ con. Từ đó đến nay, mẹ con Hiếu vẫn không biết được mộ ông nằm ở đâu. Bao nhiêu năm tìm kiếm và mong đợi, Hiếu biết mẹ vẫn chưa một lần thất vọng. Bà Thiệt tin sẽ đưa nắm xương của chồng về với mảnh đất làng như bà đã tin rằng vong linh chồng vẫn luôn phù hộ cho đứa con duy nhất của bà bình yên đi qua cuộc chiến tranh. Phút chốc, lòng Hiếu lắng xuống. Những gì tưởng đã trôi qua cùng năm tháng bận rộn chợt trở lại. Bây giờ trong tâm trí Hiếu chỉ còn một ý nghĩ: nắm xương của người cha đã khuất… Đêm ấy, hai mẹ con bàn định ngày lên rừng cải táng mộ cho ông Thiệt. Hiếu hình dung đến mảnh đất khốc liệt mà cha anh đã ngã xuống. Hiếu lờ mờ nhớ lại ngày anh còn nhỏ, nhiều đêm giật mình tỉnh dậy vì tiếng súng vọng về từ một nơi nào đó, anh thấy mẹ ngồi trầm ngâm rồi dỗ anh trở lại với giấc ngủ. Lâu rồi, hình như anh đã quên hình ảnh đó. - Mẹ định làm mâm cơm cúng cha con rồi nhờ vài người nữa cùng đi. Chuẩn bị mọi thứ xong, ngày mốt sẽ đưa cha con về… Hiếu ngã lưng trên tấm phản mát lạnh. Anh nhắm mắt lại nhưng không còn thấy cục than cháy đỏ nữa. Trong đầu Hiếu, cục than đã nguội tắt từ lúc nào không rõ, chỉ còn lại nguyên vẹn một khối gỗ đen tuyền hình tháp nhọn. Một cảm giác quen thuộc trở lại. Hiếu nhớ rất rõ cảm giác ấy, khi anh bất chợt gõ tay vào khối gỗ. Hiếu mơ hồ cảm nhận một mùi hương rất quen đang phảng phất trong gian nhà ấm cúng. Hiếu thiếp đi… Trong giấc mơ, Hiếu thấy mình lạc vào một cánh rừng bạt ngàn cây gió. Nơi ấy, cha anh yên nghỉ giữa không gian ngào ngạt mùi trầm hương tinh khiết… *** Hiếu mở mắt nhìn lên bầu trời rộng và xanh tái dưới ánh trăng hạ tuần được lọc qua vô vàn hạt sương li ti màu trắng đục… Một mùi hương rất đậm vừa đi qua đánh thức giấc ngủ mệt nhọc của Hiếu rồi tan biến vào không gian vô tận. Hiếu thở thật sâu cố tìm lại mùi hương vừa thoảng qua. Anh tin nó đang còn ở đâu đây… Có lẽ nó còn vương trên những ngọn cây trơ trụi kia và đang chờ cơn gió tới. Những ngọn cây bị chém ngang hoặc đã trụi lá, đen sạm lại bởi thuốc khai quang trong xanh như những bàn tay xương xẩu gân guốc chĩa thẳng vào không trung yên tĩnh. Tiếng thở đều đặn của mấy người bà con nằm bên cạnh giúp Hiếu nhớ lại công việc của suốt ngày hôm nay. Chung quanh yên lặng. Tiếng con suối róc rách trườn đi dưới chân núi nghe như hồi âm của một thế giới xa xôi và kỳ bí đang ru muôn loài ngủ yên bằng điệu nhạc muôn thuở của mình. Không khí trong sạch và lành lạnh làm Hiếu tỉnh táo. Anh cảm thấy sảng khoái vì được nằm dưới chân núi ngắm bầu trời cao và rộng sau một ngày gắng sức bốc cho xong nấm mộ. Không có mấy người bà con, đến mai chưa chắc mẹ con Hiếu đã xong việc… Hiếu lại nghĩ đến phần mộ mới của cha anh. Ngày mai cha anh sẽ về với mảnh đất làng… Điều mong ước lâu nay của bà Thiệt … Theo hướng gió, Hiếu quay mặt về phía có mùi hương vừa bay đến. Anh định kìm lại để khỏi kêu lên vì kinh ngạc. Bà Thiệt đang ngồi bên chiếc tiểu đã mở nắp đựng hài cốt chồng. Hiếu nhớ, hồi chiều chính tay anh đã đậy nắp chiếc tiểu lại… Trước mặt bà Thiệt, ngọn nến cắm trên một khúc cây nhỏ đang lung linh cháy. Cách bên trái bà Thiệt một bước chân là miệng huyệt lởm chởm đất chưa được lấp lại. Bên dưới ngọn nến những thẻ gỗ màu đen bóng xếp chồng lên nhau. Bà Thiệt đều đặn nhón tay nhặt từng thẻ hơ qua ngọn nến rồi nhẹ nhàng đặt vào lòng chiếc tiểu. Từng thẻ gỗ sủi bọt và mùi hương tràn ngập cả không gian quanh đó… Tự dưng, giọt nước nóng hổi ứa ra bên khóe mắt Hiếu. Anh ngước mặt lên bầu trời rộng, vầng trăng lay động rồi nhòa đi, tanh thành vô số những mảnh vụn long lanh. Khi Hiếu quay lại phía chiếc tiểu thì không còn một thẻ gỗ nào nữa. Bà Thiệt ngồi bất động, bóng đổ xuống mặt đất một màu tối sẫm. Hiếu nghĩ đến khối trầm… Khuôn mặt lão Tưng hiện lên méo mó như được nhìn qua một tấm gương nhòe nhoẹt nước mưa. Huế, tháng 6 và 7 năm 1985 L.C.D. (15/10-85) |
I. Nàng là nhân vật chính của vở kịch. Vở kịch đang diễn ra. Những chủ đề về tình yêu và hôn nhân, về ước mơ và sự thật, về hoài vọng và định mệnh, về sinh ly và tử biệt, v.v và v.v... đan chéo và quyện chặt vào nhau, tạo nên một trường nghĩa lơ mơ lan man đầy ảo dị mà qua đó, những nhân vật còn lại cứ tông tốc xoay xỏa quanh một nhân vật trung tâm đang chơi trò mê hoặc: nhân vật chính.
Đó là lần thứ mười Malio quay về góc phố ấy. Phố hẹp, những căn nhà mặt tiền nhấp nhô, khách sạn lấp lánh đèn chen cửa hàng tơ lụa, phòng tranh sơn mài phương Đông sát với những quán cà phê nho nhỏ bài trí kiểu Tây phương...
Năm 1966 thầy Phan Linh dạy Toán lớp 7A tại trường cấp II xã Phúc Giang. Đó là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Máy bay Mỹ cứ nhằm những tụ điểm đông người thả bom. Học sinh đến trường phải đội mũ rơm. Để tránh bom đạn trường Phúc Giang phải sơ tán về các làng, các xóm học tạm. Lớp 7A của Phan Linh sơ tán về làng Mai.
Gió từ đại dương lồng lộng thổi qua cửa sông, qua bãi cát trắng xoá rồi vỗ đập vào những tàu lá dài ngoằng của loài dừa nước, oà vỡ những thanh âm xạc xào.
Đúng sáu năm tôi không trở lại thành phố ấy dẫu rằng trong lòng tôi luôn luôn có một nỗi ham muốn trở lại, dù trong sáu năm tôi giấu kín trong lòng mình điều đó, chôn thật sâu trong suy nghĩ của mình, chẳng hề nói ra.
Chúng tôi tìm được địa điểm chốt quân khá lý tưởng. Đấy là chiếc hang đá ở lưng triền núi; hang cao rộng vừa lõm sâu vào vách núi. Cửa hang được chắn bởi tảng đá khổng lồ, rất kiên cố; dù máy bay Mỹ có phát hiện thấy cửa hang mà phóng rốc két, đánh bom tấn thì người ở trong hang vẫn chẳng hề gì! B52 có rải thảm bom thì lại càng không ăn thua.
Sau khi dọn bàn ghế xong, bà Lan chọn chiếc bàn kê sát ngoài cửa ngồi trang điểm. Từ ngày mở quán, bà đâm ra có thói quen ngồi trang điểm như thế, vừa tiện việc mời chào khách, vừa có đủ ánh sáng đầu ngày.
Chiếc váy của Tuyl Cleng va quệt không ngớt vào mấy vạt cỏ hai bên vệ đường. Những chỉ hoa văn ở riềm váy trông như hai cánh tay chạy như bay xuống đồi. Cuốn vở học trên tay cô nhịp nhàng lên xuống như chiếc quạt diễn viên múa. Mùa xuân sắp đến, trời đất như rộng rinh thêm. Những con chim trao trảo, chèo bẻo, ta li eo... cũng hót vang bên rặng rừng, vui lây theo nỗi vui của Tuyl Cleng.
Ven Hồ Gươm ở phía lề đường bên phải, cách chân tượng vua Lê Thái Tổ ước ngoài trăm mét, luôn có một bồ đoàn. Bồ đoàn là chừng dăm tấm thảm Tầu rải sàn nhập lậu từ các tỉnh phía Bắc được các gia đình Hà Nội trung lưu ưa dùng.
1Sau lần đi gặt thuê cho đồng bào dân tộc ở Vĩnh Thạnh về, tôi bị trận sốt rét nặng. Dai dẳng trở đi trở lại gần ba tháng mới khỏi. Những ngày sau đó, trong người thấy cứ nôn nao, bứt rứt.
Có thể cô gái ấy đã trồi lên từ thủy cung do thủy triều xuống quá nhanh. Một nửa thân hình của cô từ dưới eo trở lên, hoàn toàn khỏa thân nhô ra khỏi mặt nước.
Mặt trời như còn ngái ngủ. Cùng với cánh cò trắng từ đâu bay về sáng nay, tôi bần thần chờ đợi một điều gì đó. Nó mong manh và đằm thắm theo về với cơn gió lạnh. Như mặt trời vẫn thập thò, như đường về mệt mỏi, như hàng cây đìu hiu. Vừa gần gũi tưởng có thể ôm giữ được mà cũng vừa cách xa vời vợi.
Hôm qua nghe đài, có một cái tên giống hệt người thân của mình đã mất tích trong chiến tranh. Rồi một tên khác, kế tiếp một tên khác với hòm thư toàn những chữ số. Hai anh em tôi nhìn nhau. Đã biết bao lần anh em tôi nhìn nhau như vậy. Từ khi con bé thiên thần kia còn chưa biết khóc vì buồn.
ITiệc có vẻ sắp tàn. Nàng đứng lặng lẽ gần cửa ra vào đưa mắt bao quát căn phòng rộng. Đèn chùm sáng trắng. Nhạc êm dịu trong phòng hôn lễ đã giúp nàng tự tin hơn khi bước chân vào có một mình với bộ đồ xoàng xĩnh đang mặc.
Bây giờ thì Hồng sắp được gặp chị. Người chị mà suốt những năm tháng đi xa, ở đâu Hồng vẫn luôn nghĩ tới. Cứ mỗi lần như thế, một tình cảm thân thương choán ngập tâm hồn Hồng.
- Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rồ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.
Bác Hai đang ngồi trước mặt tôi, lặng im như pho tượng. Đôi mắt bác đăm đăm không chớp, nhìn về một cõi xa xăm mà tôi đoán chừng là ở nơi ấy chắc chắn có những kỷ niệm vui buồn về người em trai của bác, chính là cha tôi.
Cuối năm, Đài truyền hình liên tục thông báo gió mùa đông bắc tràn về, miền Tây Bắc nhiệt độ 00C, khu vực Hà Nội 70C...
Tôi tạm xa Hà Nội một tuần. Cũng chẳng biết là phải xa hay được xa nữa. Bố mẹ phái: - Cho con Hạ đi ăn giỗ!
Tặng anh Hữu Ngọc, anh Đoàn, Lành - Ngọc Anh. Tưởng nhớ chị TâmHảo không có giấy mời. Có thể những người bạn cũ của anh ở Huế cũng đã nghỉ hưu cả rồi, hoặc giả họ bận trăm công ngàn việc nên cũng chẳng nhớ anh ở đâu mà tìm... Song điều ấy không quan trọng.