Khối C thất thế là suy thoái các giá trị nhân văn

07:54 16/05/2011
Dư luận đang lo lắng về việc rớt giá thê thảm của khối C. Khối C đã thật sự bị sĩ tử thẳng thừng từ chối, điều đó cho thấy rằng xã hội đang quay lưng… đằng sau đó có những hệ lụy gì?

GS Phong Lê

Là người có thâm niên hơn 30 năm làm thầy trên nhiều bục giảng, với giáo sư Phong Lê - nguyên Viện trưởng Viện Văn học, chuyện học văn- dạy văn và sự quay lưng với khối C cũng đang là mối bận tâm lớn ở ông. Giáo sư vừa có những tâm sự trên Dantri.com.vn. Sông Hương xin dẫn lại:

Khối C thất thế, suy thoái các giá trị nhân văn

Theo như công bố của các báo, số lượng thí sinh ở Hà Nội đăng kí thi khối C là 4,44% ở TPHCM có 1,4%, cả nước con số cũng không được 5%. Con số này cho thấy tình cảnh "thê lương" của khối C khiến cho nhiều người, nhất là những người làm trong các ngành Khoa học nhân văn sẽ phải nghĩ rất nhiều. Việc đi tìm nguyên cớ không khó, ai cũng có thể thấy được nguyên cớ, nhưng quan trọng là giải pháp. Đây không phải là sự đột biến mà nó thể hiện xu hướng đã thấy từ nhiều năm trở lại đây, năm sau lại thấp hơn năm trước, điều đó nghiêm trọng và đáng lo hơn rất nhiều.

Đăng kí khối C quá ít, càng ngày càng ít, mà ra trường vẫn không có việc làm - đó là điều trớ trêu, muốn có một chỗ làm (có thể là trái nghề) phải chạy nhiều chục, hàng trăm triệu đồng!...

Sự thất thế của khối C theo tôi cục diện này chưa phải là đã đến đáy nhưng cái đáy đó ai cũng đã nhìn thấy. Đừng chờ đến đáy mới giải quyết vấn đề. Bởi điều này về sâu xa báo hiệu sự suy giảm rất khủng khiếp về giá trị nhân văn. Để đào tạo nên một con người cần cung cấp tri thức khoa học và tri thức về xã hội, đây là hai yếu tố căn cốt. Hiện nay có xu hướng lao vào tri thức thực dụng với sự lên ngôi của các ngành học như Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng, Ngoại ngữ... Những nghề nghiệp nhanh chóng sinh lãi. Điều này, nhất thời tạo ra sự sung mãn của xã hội nhưng con người ngày càng trở nên cằn cỗi. Chạy đua làm tiền rồi chạy đua tiêu tiền nhằm thoả mãn những nhu cầu vật chất: xây nhà to, mua xe đẹp... còn nhu cầu tinh thần thì ngày càng co hẹp, teo tóp…Một tập thơ in ra chỉ khoảng 300-500 bản. Tác giả bỏ tiền in rồi lại ôm về nhà đem đi tặng. Tiểu thuyết cũng chỉ khoảng 1.000 bản. Sách nghiên cứu cũng chỉ có thế. Một con số để thử suy nghĩ, cuốn sách đầu tiên của tôi in năm 1972 với số lượng 1 vạn 200 nghìn bản, khi đó dân số miền Bắc là 20 triệu người. Bây giờ dân số là ngót 90 triệu nhưng sách chỉ 1.000 bản một tựa mà cũng rất khó bán. Một cuốn sách ra đời hầu hết là rơi vào im lặng may ra có một bài điểm sách, còn một ca sĩ cỡ diva hát sai ca từ thì nóng ran khắp các trang báo. Tất nhiên chẳng nên trách một cá nhân nào, nhưng những nghịch lí, hoặc trái khoáy như vậy, nó báo hiệu trạng thái bất thường, hoặc bệnh hoạn của xã hội.

Ở Hàn Quốc, lương giáo sư từ 5.000 đô la trở lên, lương giáo sư ở Việt Nam chỉ khoảng 300 đô la. Sự so sánh không phải là 300 đô với 5.000 đô mà là ở thu nhập đó so với bình quân thu nhập quốc dân. Lương giáo sư ở Việt Nam như thế thì làm sao thu hút được người tài theo học. Cha mẹ các em cũng như các em sẽ hướng đến các ngành học ra trường dễ xin việc, việc có lương cao. Thị hiếu của xã hội coi nhẹ tri thức khoa học xã hội điều này rất nguy hiểm, nó lí giải phần nào sự cằn cỗi về đời sống của con người ngày hôm nay.

Phải có nền tảng tinh thần và đạo lí để tạo nên nền móng cho sự giàu có, phải có nền tảng cho sự phát triển kinh tế. Chúng ta muốn có những Bill Gate nhưng phải vô cùng giàu có về nhân văn chứ không phải chỉ của cải vật chất. Bill Gate cũng như nhiều tỉ phú khác dành phần lớn tài sản của mình làm từ thiện chứ không phải dành cho con để con phải đi chính đôi chân của mình. Đó là cách nghĩ rất văn minh, cách nghĩ rất có tri thức cả về khoa học lẫn nhân học của người giàu thế giới.

Khối C thất thế vì sao?

Khối C tụt giảm theo tôi có hai lí do. Lí do trước hết là thuộc xã hội, khối C ra trường khó kiếm việc, kiếm được việc thì cũng lay lắt. Tôi nghe có chuyện cô giáo dạy văn có bằng thạc sĩ muốn xin được việc giáo viên dạy cấp 3 phải mất cả trăm triệu đồng. Lấy đâu ra từng ấy tiền để xin việc, xin được việc thì bao giờ mới kiếm đủ từng đó tiền để bù lại.

Nhưng còn có một nguyên nhân nữa thuộc về ngành giáo dục. Từ lâu lắm rồi, qua các kết quả thi cử mới thấy việc học khối C thật thảm hại. Bởi chỉ cần thuộc bài, và làm theo văn mẫu. Có cần gì đến thông minh, sáng tạo hoặc sự giàu có về cảm xúc, tâm hồn.

Sách giáo khoa thì vẫn chỉ là những bổn cũ soạn lại, lặp đi lặp lại năm này qua năm khác, trong khi thực tiễn đời sống, và sáng tạo văn chương luôn luôn thay đổi khiến cho những ai yêu văn, thích văn có hứng thú học văn đều phát ớn

Việc đào tạo giáo viên dạy văn lại quá dễ dãi. Ở Pháp, trường Sư phạm là ngôi trường vinh quang nhất, ai được học ở đó đều rất vinh dự và tự hào, tấm bằng sư phạm là một bảo đảm về chất lượng. Còn ở ta, một thời truyền tụng rằng “Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”. Điều này để lại di chứng mà hiện nay chúng ta đã, đang và sẽ phải chịu hậu quả.

Trong nhà trường còn nhiều hiện tượng đáng buồn khác để dẫn đến sự suy thoái của khối C. Học sinh giỏi toán mới học được làm giáo viên toán, giỏi vật lí mới học thành thầy dạy vật lí… còn các môn khoa học xã hội không phải lúc nào cũng thu hút được người học giỏi bộ môn đó theo học để thành thầy. Tôi là sinh viên khoá đầu tiên của khoa Văn Đại học Tổng hợp trước đây (nay là Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn). Ngay từ hồi đó tôi đã nhận thấy vào học văn có hai loại: một là rất giỏi và yêu thích môn văn chỉ thích học văn chứ không thích học gì khác. Một loại là khó theo được các môn khác thì học văn.

Đến bây giờ vẫn vậy. Không học được toán- lí- hoá, không học được khối B, khối D, không có năng khiếu để thi khối V… thì mới tính đến việc cố gắng học thuộc lòng để theo khối C. Nguy hại hơn ngay cả các em giỏi văn giờ cũng không muốn theo học khối C nữa vì sợ bị đánh đồng với đa số còn lại, nếu theo học khối C thì cũng chỉ hướng tới các ngành thời thượng như báo chí, quan hệ công chúng… chứ không mặn mà với khoa học nhân văn.

Đầu vào như vậy, nên đầu ra giáo viên dạy Văn rất thấp. Cả về tri thức lẫn khả năng sư phạm. Tôi vẫn còn nhớ như in thầy cô giáo dạy Văn của mình, những người giống như thầy phù thuỷ có thể mê hoặc, quyến rũ học trò bằng tình yêu đối với văn học, nhiệt tình với bài giảng và học trò. Những thầy cô như vậy ngày càng vắng bóng trên bục giảng.

Thêm vào đó, chương trình giáo khoa lại quá nặng. Từ cấp I lớp 1 các em đã phải mang vác một chiếc ba lô nặng trịch khoảng dăm cân. Chỉ nghĩ đến đã sợ làm gì còn niềm vui với học tập với sách vở. Chương trình dạy - học văn của chúng ta quá đơn điệu, nhàm chán. Hàng chục năm nay vẫn những đoạn trích đó, những bài văn mẫu đó trong khi thời đại đã thay đổi, văn chương cũng khác, tác phẩm cũng nhiều...

5, 10, 15 năm nuôi dưỡng học sinh trong bầu không khí cực nhọc, khổ sở của văn chương như vậy thì học sinh muốn yêu môn Văn cũng khó.

“Cát sê của một ca sĩ teen hiện nay cũng đã vào khoảng 15-20 triệu đồng/sô (hát 2-3 ca khúc), ca sĩ trẻ hay ca sĩ hạng B’ đã 25-30 triệu đồng/sô, ca sĩ hạng B là 30-40 triệu đồng/sô, và ca sĩ hạng A thì từ 45-60 triệu đồng/sô (ngay cả thí sinh vừa thắng giải nhất VN Idol cũng đã đề nghị 2.000 USD/sô). Riêng các diva, ngôi sao ca nhạc thì dao động từ 5.000-10.000 USD/sô… Chương trình Dạ Tiệc Trắng của ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng, với giá vé lên đến 4 triệu đồng…” (Tuổi trẻ, 5/5/2011).

Bỏ ra 4 triệu đồng để có một vé vào nhà hát - cho những ai có nhiều tiền, đó là điều hiểu được. Nhưng hẳn là không bình thường khi món tiền đó cao hơn lương hưu của một giáo sư. Mà tôi tin là trong số những người hào phóng vào nhà hát có người lại rất ngại hoặc không bao giờ nghĩ đến việc bỏ ra dăm bảy chục nghìn để mua một quyển sách, dù nó là kết quả lao động nhiều năm của tác giả là nhà văn hay nhà khoa học có tiếng. Nhuận bút đương trả cho các tác phẩm trên chắc cũng chỉ nhỉnh hơn giá vé xem một đêm diễn.

Giải pháp nào cho hiện trạng sĩ tử từ chối khối C?

Muốn chấn hưng được thì không chỉ báo động suông mà phải có chính sách cần từ 5 đến 10 năm may ra mới có sự thay đổi. Còn về lâu dài phải dựa vào cả một nền tảng giáo dục gồm gia đình, nhà trường và xã hội. Mỗi đứa trẻ phải được sự giáo dục từ chính bố mẹ, coi tri thức khoa học nhân văn như của cải tinh thần, không cứ muốn theo đuổi các ngành xã hội nhân văn mới học văn. Điều này thì phải mấy thế hệ mới có thể cải thiện được.

Con người không được nuôi dưỡng về tâm hồn thì cái ác sẽ nảy sinh. Không có tri thức tâm hồn chỉ có thể tạo nên một thứ giàu xổi, một thứ giàu bất chấp tất cả buôn gian bán lận, không từ một thủ đoạn nào để kiếm lợi cho mình. Từ gia đình đến nhà trường, rộng ra là xã hội đều đang bị nhiễm độc bởi sự ngự trị của xu hướng làm tiền, kiếm tiền.

Khi một tội ác diễn ra, về sâu xa căn nguyên là giáo dục và đời sống tinh thần. Giáo dục từ gốc là gia đình rồi nhà trường và xã hội. Đời sống tinh thần là các giá trị nhân văn do con người tạo ra và cho con người hưởng thụ. Trong gia đình, giáo dục đã mất gốc, các nền nếp xưa không còn giữ lại được, đầy rẫy những chuyện thường luân bại lý như con giết cha, vợ giết chồng, anh giết em… Nhà trường thì bỏ lửng, thầy cô lên lớp trống hết giờ là thôi. Xã hội thì không có các biện pháp, chính sách kiềm chế sự phát triển nóng của cái thời thượng, đặt các giá trị về đúng chỗ. Đời sống văn hoá tinh thần bị nhiễm độc, các giá trị bị đảo lộn. Cái thời thượng lên ngôi, cái nền tảng bị bỏ qua, bỏ quên.

Tri thức khoa học và tri thức tâm hồn đó là đôi cánh nâng đỡ con người. Nhưng mải mê chạy theo thời thượng, chúng ta đã bỏ quên đã coi nhẹ. “Cầm vàng mà lội qua sông” cái mất đi không thể khôi phục trong một sớm một chiều. Đó là tình cảnh bi kịch của đời sống hôm nay.

Quay lưng với khối C - đứng về lâu dài, và ở tầm bao quát, đó là sự quay lưng với các giá trị làm người (tâm hồn, nhân cách), là sự coi rẻ hoặc gạch bỏ các giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc và nhân loại.

Hãy nhìn vào những tội ác diễn ra trên khắp mặt đời sống hôm nay, tìm đến nguyên nhân sâu xa của nó - chính là sự bỏ quên hoặc coi nhẹ này và như vậy- nếu để kéo quá dài mà không có cách xoay chiều để “chấn hưng” khối C thì sẽ là một thương tổn lớn cho cả một hoặc nhiều thế hệ.

Mỗi cá nhân, từng gia đình và xã hội phải lường trước hậu quả đó.







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Có khi nào bạn lúng túng khó xử khi trong nhà có quá nhiều sách? Sách tự mua. Sách được tặng. Sách tự làm ra. Sách của ngày xưa. Sách mới bây giờ. Theo năm tháng, sách trong nhà cứ chất chồng lên mãi...

  • Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm vừa ban hành Quy chế về hoạt động giám định tác phẩm mỹ thuật - tác phẩm nhiếp ảnh. Quy chế này có hiệu lực từ ngày 1-10-2018 với yêu cầu 100% hội đồng tán thành mới đi đến kết luận cuối cùng về tác phẩm được giám định là thật hay giả…

  • Ngày 15/10, tại Hà Nội, Bộ VHTTDL đã tổ chức cuộc họp nhằm chuẩn bị cho phiên họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng các danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú (NSND, NSƯT) và danh hiệu nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú (NNND, NNƯT) năm 2018.

  • Nghệ thuật truyền thống dân tộc như: tuồng, chèo, cải lương, kịch hát dân tộc… đang kêu cứu, vì người xem ngày càng giảm, người theo nghề ngày càng hiếm. Hiện nghệ thuật truyền thống dân tộc đang thiếu hụt trầm trọng lực lượng thay thế trên tất cả các lĩnh vực, như diễn viên, nhạc công, biên kịch, đạo diễn…

  • Từ góc nhìn của nhà quy hoạch, Giám đốc SLAB, Đại học Nam California (Mỹ), GS. Annette Kim cho rằng, vỉa hè đa chức năng là một phần tạo nên thành phố sôi động, bền vững, đóng góp vào sinh hoạt cộng đồng.

  • Kết thúc loạt bài này, chúng tôi mong muốn, những nhận thức về văn hóa ngày càng hoàn thiện tiến gần đến giá trị cốt lõi nhất của văn hóa: Hình thành nhân cách con người và cốt cách của một dân tộc, trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng để đất nước phát triển bền vững.

  • Hiện nay, nguy cơ mai một giá trị truyền thống làng xã rất lớn, ở cả chiều rộng và chiều sâu. Việc bảo tồn các giá trị di sản trong quá trình quy hoạch không gian kiến trúc làng không thể chậm trễ và trì hoãn. Trong đó, bảo tồn thích ứng và phát triển tiếp nối là phương thức mà giá trị tinh thần của di sản được kế thừa, hoàn thiện.

  • Chỉ đạo nghệ thuật được ví như người giữ lửa, bảo đảm khuynh hướng nghệ thuật, phong cách sáng tạo của đơn vị. Tuy nhiên, nhiều nhà hát của Hà Nội đang thiếu đội ngũ chỉ đạo nghệ thuật tài năng, chuyên nghiệp, dẫn tới sáng tạo ít mang tính đương thời, chưa có nhiều tác phẩm đỉnh cao có thể cạnh tranh với các loại hình nghệ thuật khác.

  • Mặt nạ giấy bồi, đèn kéo quân, tàu thủy sắt tây... từng mang lại niềm vui cho biết bao đứa trẻ mỗi độ Tết Trung thu. Nhưng trước sự phát triển của xã hội, những món đồ chơi truyền thống này liệu có cần thay đổi để đáp ứng thị hiếu trẻ nhỏ “thời 4.0”?

  • Vài năm trở lại đây, thị trường sách thiếu nhi trong nước đã có những chuyển biến với nhiều tín hiệu khởi sắc, nhưng vẫn cần nhiều cú hích để thực sự ổn định.

  • Dù trẻ con ngày nay ít còn chơi đèn kéo quân nữa, nhưng mỗi mùa Trung thu đến, gần ngày rằm tháng 8, nghệ nhân Vũ Văn Sinh lại cặm cụi làm những chiếc đèn truyền thống để giữ nghề, hoài niệm tuổi thơ và tưởng nhớ tổ tông.

  • Năm 2018, cải lương đánh dấu sự xuất hiện đúng 100 năm trên mảnh đất Nam bộ. Ngoài vở diễn “Thầy Ba Đợi” tri ân người khai sáng bộ môn nghệ thuật này, bộ phim “Song Lang” cũng ra mắt công chúng để góp thêm tình yêu cho khán giả hôm nay đối với loại hình sân khấu độc đáo trong tâm thức cư dân mở đất. Con đường đã qua của cải lương rất nhiều thành tựu, nhưng con đường phía trước của cải lương cũng không ít thử thách!

  • Dù còn nhiều khó khăn nhưng giới bạn đọc đang dần tiếp cận và sử dụng những sản phẩm trong cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 để có thể thỏa mãn nhu cầu tiếp nhận thông tin hữu ích. 

  • Vùng đất phía Tây Hà Nội còn nhiều ngôi đình làng là biểu tượng của vùng xứ Đoài, với những giá trị đặc sắc về kiến trúc và điêu khắc. Tuy nhiên, hiện nay, các ngôi đình này đối diện với nguy cơ xuống cấp và bị hủy hoại. Đã có rất nhiều công trình bị “trùng tu như phá”, gần đây nhất là tại đình Lương Xá, xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa.

  • Mong muốn nghiên cứu, phục dựng, bảo tồn lại các nét đẹp trong văn hóa truyền thống của Việt Nam, ngày 8-8, Ỷ Vân Hiên với đội ngũ các bạn trẻ chuyên nghiệp, có kiến thức chuyên môn cùng với lòng nhiệt thành, sức sáng tạo mạnh mẽ đã ra mắt tại Hà Nội.

  • Trong 6 tháng đầu năm 2018, ngành xuất bản đã gây được tiếng vang trong xã hội với nhiều cuốn sách có nội dung tốt, mang tính thời sự... Số lượng xuất bản phẩm vi phạm về nội dung có giảm so với cùng kỳ năm 2017 nhưng vẫn chưa có giải pháp khắc phục triệt để.

  • Tiếp bước sự sáng tạo với sơn mài của các bậc thầy thời kỳ hội họa Đông Dương, ngày nay nghệ thuật sơn mài đương đại vẫn kế thừa và phát triển với nhiều lối biểu hiện và tìm tòi mới. Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả nghệ thuật, nhiều sáng tạo cũng gây tranh luận.

  • Tính đến thời điểm này, Việt Nam có 12 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh. Thế nhưng, bên cạnh niềm vinh dự thì những danh hiệu cũng đang tạo ra nhiều sức ép không nhỏ với các nhà quản lý văn hóa trong công tác quảng bá, bảo tồn và phát triển.

  • Tuồng là môn nghệ thuật sân khấu truyền thống độc đáo của dân tộc Việt Nam. Thế nhưng, cũng giống như những loại hình nghệ thuật truyền thống khác, tuồng đang đứng trước nguy cơ mai một. Ở đó việc bảo tồn để duy trì và phát triển nghệ thuật tuồng đang là “bài toán” không dễ gì tìm được câu trả lời thấu đáo.

  • “Ok (đồng ý) hay không thì mày nhớ confirm (xác nhận) cho người ta nha”; “giao đứa nào set up (sắp xếp) vụ này ngay và luôn đi chứ hứa rồi bỏ đó không hà”; “go now (đi ngay), mà free (miễn phí) thiệt hả?”; “nay được ở nhà full (cả) ngày”… Đó là vài trong số những câu Tây không ra Tây, ta chẳng ra ta mà giới trẻ Việt đang sử dụng trong cuộc sống hàng ngày.