Trong tiếng Hy Lạp cổ, từ chỉ “nghệ thuật” là techne, chính là nguồn gốc của các từ technique (kĩ thuật) và technology (công nghệ) - những thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong cả ngành khoa học và nghệ thuật. Nhìn vào hội họa thế kỷ 19, ta nhận thấy các họa sĩ thực sự là những kỹ sư ánh sáng và màu sắc tài tình.
Claude Monet, Bên bờ sông Sein, Bennecourt, 1868
Khoa học và nghệ thuật đều là những phương tiện nghiên cứu. Cả hai đều liên quan đến các ý tưởng, lý thuyết và giả thuyết được kiểm chứng ở những nơi mà cả trí óc và tay chân cùng được vận dụng: phòng thí nghiệm và studio. Nghệ sĩ, cũng như nhà khoa học, nghiên cứu tư liệu, thiên nhiên, con người, văn hóa, lịch sử, tôn giáo v.v, và biến những thông tin đó thành một thành phẩm khác.
Vào cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, những hiệu ứng sinh lý, tâm lý và giác quan về màu sắc và ánh sáng trở thành mối bận tâm chính của các họa sĩ trường phái Ấn tượng và Hậu Ấn tượng như Edgar Degas, Vincent van Gogh, Auguste Renoir, Paul Gauguin và Claude Monet. Được cho là họa sĩ tranh thiên nhiên vĩ đại nhất trong lịch sử hội họa hiện đại, Monet đã gợi ý rằng cảm giác của chúng ta về môi trường vật chất thay đổi liên tục cùng với những thay đổi trong nhận thức của chúng ta về ánh sáng và màu sắc.
Trong bức “Bên bờ sông Sein, Bennecourt” (On the Bank of the Seine, Bennecourt, 1868), Monet đã nắm bắt được cái “ấn tượng” thoáng qua của phong cảnh nhờ một phong cách vẽ và bố cục phóng khoáng. Ấn tượng này của ông là “tiền nhận thức” - trước khi tâm trí có thể dán nhãn, xác định và chuyển đổi những gì nó thấy vào bộ nhớ. Đặc biệt, người phụ nữ trong bức họa (chính là vợ tương lai của Monet) không nhìn thẳng vào những ngôi nhà và cây cối bên kia dòng sông mà nhìn vào hình ảnh phản chiếu dập dờn, lộn ngược của khung cảnh đó trên mặt nước. Góc nhìn này giống như bản chất quá trình nhận thức hình ảnh vậy: các hình ảnh đi vào mắt dưới dạng ánh sáng; khi ánh sáng thâm nhập, hình ảnh được đảo ngược lại và chiếu lên mặt sau của nhãn cầu, nơi các thông tin sẽ được não bộ xử lý. Bức tranh của Monet đã nắm bắt được sự dao động giữa ấn tượng và nhận thức - một khoảnh khắc ngẫu nhiên. Nó chuyển tải một cảm giác run rẩy khi ánh sáng và màu sắc phong cảnh thay đổi và thời gian trôi đi.
Monet còn khai thác một hiện tượng thị giác nữa gọi là afterimage (hậu ảnh), một hiện tượng thường gặp nhưng lại ít được chú ý. Hiện tượng này xảy ra khi ta nhìn chăm chú vào một khối màu đơn nào đó, ví dụ như màu đỏ, trong một khoảng thời gian dài ít nhất một phút, ta sẽ thấy xuất hiện một quầng màu bổ trợ cho màu đỏ (trong trường hợp này là màu xanh lục) ở xung quanh. Quầng màu sẽ trở nên rõ rệt hơn khi ta chuyển thật nhanh sang nhìn vào một khoảng màu trắng.
Trong chùm tranh về những đống cỏ khô (Haystacks, 1890–1891) của Monet, gần như tất cả các đống cỏ đều được viền bởi những quầng màu bổ trợ, tạo nên một vầng sáng mơ hồ. Monet tuyên bố rằng mình đã trải nghiệm hiện tượng afterimage thì phải vẽ lại được hiện tượng đó. Như vậy, trong khi các nhà khoa học nghiên cứu hiện tượng này để tìm hiểu về chức năng và cơ chế của võng mạc thì các họa sĩ sử dụng hiệu ứng đó để tạo nên những tuyệt tác thị giác trong tranh của mình.
Cũng bị lôi cuốn bởi khoa học về màu sắc, Georges Seurat đã bắt đầu vẽ bức họa nổi tiếng “Một chiều Chủ nhật trên đảo La Grande Jatte” (A Sunday Afternoon on La Grande Jatte) từ năm 1884. Lúc bấy giờ là sinh viên Học viện Mỹ thuật tại Paris, Seurat nghiên cứu vật lý học màu sắc, và bức họa khổng lồ này thực sự là một bài tập về lý thuyết màu sắc.
Khác với các họa sĩ thời Phục Hưng và những họa sĩ Hà Lan ở những thời kỳ trước, Seurat hay Monet không tự trộn màu vẽ mà hưởng thành quả từ những đột phá của các nhà hóa học Pháp đầu thế kỷ 19. Tiến bộ khoa học đã giúp phát minh ra màu vẽ trộn sẵn đóng trong tuýp và các chất màu tổng hợp, ví dụ như màu xanh biếc (trước đó phải tốn rất nhiều tiền mới sản xuất được). Sử dụng những chất màu mới này, Seurat đã phát minh ra một kỹ thuật gọi là Pointillism để tìm hiểu các màu đặt liền kề nhau sẽ hòa trộn với nhau như thế nào trong mắt nhìn của con người. Nhìn gần thì bề mặt bức tranh này của Seurat chứa hàng nghìn những chấm và nét màu - những khoảng màu riêng biệt. Nhưng Seurat đặt những chấm màu có tính chất bổ trợ cho nhau cạnh nhau - tím cạnh vàng, cam cạnh xanh lam, xanh lục cạnh đỏ - để khi nhìn từ xa, các màu tương tác và tạo ra những sắc màu pha rực rỡ.
Nguồn: Mỹ Anh - Tia Sáng
Theo http://www.artic.edu/aic/education/sciarttech
TUỆ NGỌC
Lê Anh Hoài là người thực hành nghệ thuật trên nhiều lĩnh vực như văn học, hội họa, trình diễn...
TUỆ NGỌC
TUỆ NGỌC
LÊ HUỲNH LÂM
"Nghệ thuật không phải là vẽ lại các đồ vật, con người mà họa sĩ thấy. Nghệ thuật phải là sáng tạo nên các đồ vật, con người không thấy được."(Paul Klee)
LÊ HUỲNH LÂM
Tánh nước vốn vô hình và mềm mại. Nhưng nước lại có quyền năng biến hiện và tùy duyên hóa thân thành mọi vật, có khi là đám mây, khi là cơn mưa, có khi làm ngọn sóng cao vút nhấn chìm mọi vật, có lúc là những đợt sóng êm đềm, là dòng sông, con suối, là thác ghềnh, là biển cả bao la,... lại có khi là giọt lệ trên khóe mắt con người. Tuy nước rất mềm mại nhưng sức mạnh của nước có thể xô ngã mọi tượng đài tưởng chừng là thường hằng ở mặt đất này.
LÊ HUỲNH LÂM
Sản phẩm từ cái khuôn mẫu đầu tiên đã đặt định con người trong thế bị động, và từ khởi thủy đầy hư cấu và huyền thoại đó bao nhiêu trí tưởng tượng đã được tạo dựng, việc chế tác một khuôn mẫu mới cho con người đã được đề cập đến nhiều lần.
Nhiều điều bí ẩn giấu đằng sau những chi tiết có thể nhìn thấy bằng mắt thường trong bức tranh "Susanna and the Elders" (Susanna và các Trưởng lão) của họa sỹ nổi tiếng thế giới người Hà Lan Rembrandt van Rijn vừa được công bố trên tạp chí Khoa học Vật liệu và Chế tạo số ra mới đây.
Các tác phẩm chọn lọc của thế hệ các nghệ sỹ trẻ Đức sẽ được quy tụ và giới thiệu đến công chúng thủ đô Hà Nội trong không gian triển lãm “Hội họa mới từ Đức,” khai mạc vào 17 giờ ngày 14/05 và trưng bày tới hết ngày 31/05, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, 66 Nguyễn Thái Học.
LTS: Họa sĩ Lê Bá Đảng sinh ngày 27/6/1921 tại làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông đã ra đi vào ngày 7/3 tại Thủ đô Paris nước Pháp, để lại dự án dang dở đáng tiếc về “một bức tranh rất lớn nằm ngửa trên mặt đất”, ước mong góp phần cho Huế trở nên một Kinh đô Mỹ thuật.
Sông Hương giới thiệu “lời chia buồn sâu sắc” đọc trong Lễ tưởng niệm họa sĩ Lê Bá Đảng của tỉnh Thừa thiên Huế vào chiều 9/3 tại Trung tâm Nghệ thuật mang tên ông.
Đối với họa sĩ, để đi đến trừu tượng hay trạng thái “không gì cả”, anh ta đã phải cần đến rất nhiều thứ.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc Van Gogh của David Haziot, Phan Hồng Hạnh chuyển ngữ, Nxb. Đà Nẵng, 2014)
...Nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa ảo giác (illusionist) đều xem nhẹ phương tiện, chúng dùng nghệ thuật để che giấu nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện đại lại dùng nghệ thuật để thu hút sự chú ý vào nghệ thuật.
“Từ mô phỏng đến phá hủy tự nhiên”: đây hoàn toàn có thể là nhan đề của một lịch sử nghệ thuật phương Tây. Một trong những nghệ sĩ hiện đại quan trọng nhất, và cũng có lẽ hiền minh nhất, Picasso, có nói: nếu chúng ta không thể thoát khỏi tự nhiên, như một số nghệ sĩ tiền bối và đương thời với ông đang cố gắng một cách vô ích, thì ít nhất chúng ta có thể làm biến dạng nó, phá hủy nó. Về cơ bản, đó chính là một hình thức mới của lòng sùng kính tự nhiên...
Năm mới là thời điểm của những tiệc tùng liên miên. Hội họa từ lâu đã rất quan tâm tới chủ đề này. Hãy cùng nhìn lại những bữa tiệc linh đình, nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa.
Một ngày nọ, khi vẽ một thiếu nữ, tôi chợt nhận ra điểm duy nhất sống động ấy là ánh nhìn như bất động của nàng. Những thứ còn lại có ý nghĩa không hơn gì cái sọ người. Người ta luôn muốn tạc nên một con người sống, nhưng điều khiến pho tượng ấy có sự sống chỉ có thể là ánh nhìn của người đó.
Các nghệ sĩ nữ thường là bộ phận ngoại vi trong những mô tả về tiến trình lịch sử, không chỉ của hội họa mà còn của nhiều loại hình nghệ thuật khác. Nhưng thực sự chính từ những nghệ sĩ nữ, những ý tưởng nghệ thuật táo báo, đột phá nhất, gây ảnh hưởng lớn thường được khai sinh. Ba nghệ sĩ nữ được giới thiệu trong chùm bài viết này đã cho thấy sự trực cảm, tinh nhạy và quyết liệt ở họ đã mở ra những cách tiếp cận nghệ thuật bất ngờ và giàu sức sống cho đến tận bây giờ.
Sau nhiều thập niên tồn tại vô danh, La Bella Principessa đang trải nhiều công đoạn đánh giá phức tạp nhằm xác định liệu nó là tác phẩm mất tích của Leonardo da Vinci hay chỉ là kẻ mạo danh.
Vào những năm 1970, bức tranh sơn dầu (về sau được gọi tên là Bình văn) được tìm thấy trong ngôi nhà của một người dân ở phố Khâm Thiên, Hà Nội. Bức tranh được cho là do Lê Văn Miến (Lê Huy Miến), họa sĩ Tây học đầu tiên người VN, vẽ nên nhưng một số phát hiện vừa qua lại dấy lên giả thiết mới.
Tôi quen với họa sĩ trẻ Nguyễn Văn Hè từ những năm anh còn là sinh viên trường Đại học Nghệ thuật Huế. Cà phê vỉa hè ở đường Phạm Hồng Thái là nơi chúng tôi thường gặp gỡ chuyện trò vào những chiều cuối tuần. Hè có một đời sống nội tâm hết sức mạnh mẽ nhưng ứng xử vô cùng nhẹ nhàng và kín đáo.
Tuần này, Phòng trưng bày Quốc gia London (Anh) sẽ triển lãm một bức chân dung mới được phục chế của danh họa Hà Lan Rembrandt. Điều thú vị là dưới các lớp sơn của tranh, người ta còn tìm thấy một bức chân dung khác, đã bị Rembrandt loại bỏ.