LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc: Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Khoa học xã hội, 2017).
Có lẽ người Mỹ sẽ không bao giờ quên được những mất mát, những đớn đau bởi các thảm họa thiên tai như bão Galveston (1900), bão Katrina (2005), bão bụi ở Great Plains (1930); hỏa hoạn và động đất ở San Francisco (1906), cháy rừng ở Peshtigo (1871), v.v. Người Nhật Bản cũng sẽ nhớ mãi những tiếng thét của đồng loại trong thảm họa động đất và sóng thần ngày 11/3/2011. Người Trung Quốc sẽ không thể tưởng tượng ra được một khung cảnh khủng khiếp hơn trong trận động đất ở Tứ Xuyên năm 2008. Và người dân miền Trung (Việt Nam), cho đến nay, nỗi đau vì Sự cố Formosa vẫn chưa hề nguôi ngoai, nước mắt vẫn đang chát mặn trên những gò má xanh xao của họ.
Sau những nỗi đau ấy của trái đất, nhân loại đã không ngừng cố gắng để gượng dậy; mỗi người, mỗi ngành đều tìm cách để hàn gắn vết thương cho mình và cho cả tha nhân. Nghệ thuật của nhân loại từ điện ảnh đến văn chương, từ hội họa đến âm nhạc, cũng đã cất lên những tiếng nói của mình trong việc làm hồi sinh môi trường sống và cảnh báo về những thảm kịch có thể sẽ tái diễn...
Trên thế giới, nghệ thuật lấy cảm hứng từ mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên đã trở thành một trào lưu rộng lớn, và phê bình nghệ thuật cũng theo chiều hướng đó đã có những vén mở về những chân trời mỹ học khác. Ở Mỹ, manh nha vào những năm 70 của thế kỉ 20, đến giữa thập niên 90, Phê bình sinh thái đã thực sự trở thành một khuynh hướng nghiên cứu văn học khả dụng và lan tỏa biên độ của nó tới các quốc gia khác. Ở Việt Nam, trong khi các hệ thống lý thuyết phê bình được các nhà nghiên cứu quan tâm rất sớm như: Hình thức luận của Nga (Formalism), Cấu trúc luận (Structuralism), Hậu cấu trúc luận/Giải cấu trúc (Poststructuralism/Deconstruction), Các lý thuyết Mác-xít (Marxist Theories), Phân tâm học (Psychoanalysis), Nữ quyền luận (Feminism), Chủ nghĩa hậu hiện đại (Postmodernism) v.v thì ngược lại, dường như Phê bình sinh thái (Ecocriticism) lại bị “hắt hủi”. Có lẽ chúng ta đã quá nặng về “Nhân loại trung tâm luận” mà quên đi căn nền lưu trú của chúng ta: “Sinh thái trung tâm luận”.
Công trình “Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương” của nhà phê bình văn học Nguyễn Thị Tịnh Thy ra đời trong bối cảnh hôm nay đã góp phần làm sống động hơn cho phê bình sinh thái vốn mờ nhạt ở Việt Nam, góp phần đưa phê bình văn học Việt Nam tiếp cận với các trào lưu, lý thuyết phê bình khả dụng vào thực tiễn đời sống của thế giới. Công trình này được chia làm bốn chương. Thông qua mỗi chương sách tác giả lần lượt giới thiệu và làm sáng tỏ các nội hàm của những thuật ngữ liên quan tới phê bình sinh thái. Đi tới tìm hiểu căn nguyên ra đời, sự lan tỏa của lý thuyết và khả năng hứa hẹn vén mở về mặt thẩm mỹ trong nghệ thuật của phê bình sinh thái. Với những diễn giải sáng rõ, chương trước làm tiền đề cho chương sau, chuyên luận bắt đầu bằng sự giới thiệu các khái niệm tiền đề cần nắm trước khi đi vào lãnh địa của phê bình sinh thái như: Sinh thái - sinh thái học, Ý thức sinh thái, Triết học môi trường, Triết học sinh thái, Luận lý học sinh thái, Chủ nghĩa nhân loại trung tâm, Chủ nghĩa phi nhân loại trung tâm, v.v. Sau những giới thiệu về các khái niệm tiền đề căn bản, tác giả luận giải về văn học sinh thái thông qua giới thiệu các thuật ngữ tương cận trước khi đi vào khái niệm văn học sinh thái và các đặc trưng của văn học sinh thái. Để chứng minh đề tài sinh thái luôn có sức lôi cuốn người sáng tạo, Nguyễn Thị Tịnh Thy đã dụng công giới thiệu mười tác phẩm văn học sinh thái kinh điển mà bạn đọc Việt Nam ít ai biết tới như: tiểu thuyết Frankenstein của tác giả Mary Shelley (1818), Niên giám xứ cát của Aldo Leopold (1949), du ký Cư dân của tuần lộc của Farley Mowat (1952), tập tản văn Walden của Henry David Thoreau (1854), Cội rễ của bầu trời của Romain Gary (1956), v.v.
Theo đánh giá của chúng tôi thì chương 3 “Phê bình sinh thái” là chương tác giả đã dụng công nhất. Luận giải các vấn đề phức tạp và đa dạng của phê bình sinh thái, tác giả đã lựa chọn một thứ văn phong giản dị và sáng tỏ để làm rõ những khái niệm, những quan điểm đồng dạng và dị biệt về phê bình sinh thái và những đặc trưng của phê bình sinh thái. Đặc biệt, tác giả không chỉ nêu ra các quan điểm, các định nghĩa khác nhau về phê bình sinh thái trên thế giới mà còn đi vào phân tích, đối sánh các định nghĩa, chỉ ra những giới hạn và cả tính ưu việt trong mỗi định nghĩa, mỗi khái niệm. Sau khi đi vào nêu rõ các định nghĩa, phân tích, đối sánh và chỉ ra tính ưu trội cũng như khiếm khuyết trong các định nghĩa của Joseph Meeker, James S. Hans, Scott Slovic, Cheryll Glotfelty, Vương Nặc, v.v, Nguyễn Thị Tịnh Thy đã đề xuất định nghĩa phê bình sinh thái trong quan niệm của mình như sau: “Phê bình sinh thái là phê bình văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định hướng tư tưởng của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái thông qua việc khám phá thẩm mỹ sinh thái và biểu hiện nghệ thuật của nó trong tác phẩm.”
Trong chương 3, các đặc trưng của phê bình sinh thái được tác giả chuyên luận trình bày một cách sáng rõ và dễ nắm bắt. Theo tác giả thì phê bình sinh thái đã hấp thu các tiền đề lý luận của nhiều ngành khoa học khác nhau, nó có những đặc trưng như: chú ý đến định hướng đạo đức sinh thái, đọc lại văn học kinh điển truyền thống từ góc nhìn sinh thái, giữ vững lập trường chủ nghĩa sinh thái trung tâm, có tính liên ngành, thể hiện tinh thần văn hóa sinh thái thông qua “tính văn học”. Nằm trong dòng phê bình văn học mang cảm quan hậu hiện đại, theo tác giả: “Nội hàm căn bản của phê bình sinh thái là tính giải cấu trúc mạnh mẽ, biểu hiện ở các đặc điểm lệch tâm, tản quyền, cái chết của chủ thể, lật đổ và tái thiết, tính đối thoại.” Lịch sử phát triển của phê bình sinh thái cũng được tác giả nỗ lực khái quát một cách công phu với một thái độ làm việc cẩn trọng và chuyên nghiệp. Từ đây, người đọc có được một bức tranh vừa toàn cảnh vừa chi tiết về những chặng đường mà phê bình sinh thái đã đi qua cũng như những thành quả mà nó đã đạt được.
Với những khai mở, cống hiến, đây thực sự là một cuốn sách nền tảng cho những ai muốn tìm hiểu về lý thuyết phê bình sinh thái cũng như thành quả của nó ở Việt Nam. Theo chúng tôi, cuốn sách không chỉ dành cho các bạn đọc thuần túy, mà ngay cả các nhà phê bình văn học, khi muốn tìm hiểu về phê bình sinh thái thì đây cũng là một tài liệu tham khảo hữu ích.
Đánh giá về công trình này, nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy cho rằng: “Chuyên luận phê bình sinh thái của Tịnh Thy giới thiệu khá đầy đủ về lý thuyết, nguồn gốc, phát sinh, phát triển, sự khác nhau về các quan niệm, quan điểm của phê bình sinh thái… Bằng những phân tích, nhận định tinh tế sắc sảo, Tịnh Thy đã làm sống động các vấn đề lý thuyết phức tạp vốn rất dễ trở thành tiêu bản, đồng thời chứng minh tính hiệu quả của lý thuyết ấy bằng những khám phá nghệ thuật mới mẻ, độc đáo mà các lý thuyết phê bình tiền hiện đại, hiện đại khó nhận ra, thậm chí khó thừa nhận.”
Để thuyết phục người đọc hơn, tác giả chuyên luận đã dành chương cuối cùng của công trình để đi vào thực hành phê bình các tác phẩm văn học dưới sự rọi chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái. Đối tượng mà tác giả chuyên luận lựa chọn khá đa dạng và rộng mở, không thuộc duy nhất một nền văn học cụ thể của một quốc gia hay một giai đoạn văn học. Điều này cũng xuất phát từ tính liên ngành, liên văn hóa của phê bình sinh thái. Đối tượng được tác giả chuyên luận hướng tới là bộ ba truyện ngắn: Kiến và người, Mối và người, Nhện và người và tiểu thuyết Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên; Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê; Thơ Haiku Nhật Bản; Totem sói của Khương Nhung. Với mỗi đối tượng nghiên cứu, Nguyễn Thị Tịnh Thy có cách tiếp cận riêng biệt. Tác giả đã đi sâu vào thế giới của mỗi nhà văn để làm rõ đặc trưng lối viết nghiêng về tư tưởng sinh thái của họ. Từ đó, người đọc thấy rằng tiếng nói của nghệ thuật trong việc lấy lại màu xanh cho trái đất là không kém phần quan trọng so với tiếng nói của các ngành khoa học khác. Với bộ ba truyện ngắn của Trần Duy Phiên, tác giả cho rằng đó là những tác phẩm văn học sinh thái hiếm hoi góp phần khỏa lấp mảng trống của dòng văn học này trong văn học Việt Nam đương đại. Sáng tác của Trần Duy Phiên là văn chương sinh thái đích thực, nó nằm ngoài sự thờ ơ của các nhà văn Việt Nam trước vấn đề sinh thái. Đánh giá về Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê, tác giả cho rằng tất cả những yếu tố nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đều thể hiện tâm huyết chuyển tải những vấn đề liên quan đến thời sự về môi trường đang diễn ra từng ngày ở nước ta, góp thêm một tiếng kêu cứu từ rừng xanh, cho rừng xanh… Dưới nhãn quan phê bình sinh thái, tác giả đã đưa đến cho người đọc những góc nhìn khác về tác phẩm Tôtem sói, đứng từ sinh thái trung tâm luận. Tôtem sói là Khúc hoan ca của đại tự nhiên, là Khúc tụng ca về sói thảo nguyên, là Khúc tráng ca về sự sinh tồn, là Khúc bi ca tiễn biệt thảo nguyên… Đồng thời trên quan điểm “đối thoại”, tác giả còn phản biện vấn đề dân tộc học được luận giải thông qua tự nhiên học của nhà văn Khương Nhung.
Hiện nay trên Youtube đang lưu hành một đoạn video ngắn, trong đoạn video đó người ta đã đưa ra một giả định rằng “Trái đất sẽ ra sao sau khi con người biến mất.” Và sau đây là câu trả lời từ chính đoạn video ấy: “Sau khi con người rời khỏi trái đất hoàn toàn, trong vòng 24 đến 28 giờ điện sẽ tắt. 3 ngày sau, tàu điện ngầm sẽ bị ngập. 10 ngày sau khi con người biến mất, vật nuôi sẽ chết, hoặc chúng phải sống trong luật rừng của những nhóm vật nuôi ăn thịt. Một tháng sau sẽ xuất hiện hàng loạt vụ nổ hạt nhân cày nát bề mặt trái đất. Động vật sẽ chết vì ung thư. Một năm sau, vệ tinh hay bất cứ cái gì loài người gửi lên không gian đều sẽ rơi xuống. 25 năm sau, đường phố sẽ được phủ kín bởi những thảm thực vật và nhiều thành phố sẽ chìm trong cát. Thiên nhiên sẽ phá hủy mọi thứ mà con người đã tạo nên. 300 năm sau, tháp Eiffel sẽ sụp đổ, hay bất cứ công trình nào làm bằng thép, kim loại cũng sẽ sụp đổ trước sức mạnh của thiên nhiên. Đầm lầy bắt đầu trở nên phổ biến, các loại sinh vật sẽ sinh sôi. 500 năm sau sẽ không còn các dấu vết của những thành phố hiện đại. Và rừng sẽ thay thế mọi thứ. 10000 năm sau, những gì chứng minh con người đã từng tồn tại là các công trình bằng đá như Kim tự tháp, Vạn Lý Trường Thành, các vị tổng thống bằng đá ở Hoa Kỳ... 50 triệu năm sau, chỉ còn lại vài mảnh chai nhựa, mảnh thủy tinh của con người và chúng sẽ hoàn toàn biến mất sau 100 triệu năm. 300 triệu năm sau khi con người biến mất, sẽ chẳng có bất cứ một cái gì của con người còn sót lại trên trái đất. Nếu các sinh vật ngoài hành tinh đến trái đất sẽ chẳng bao giờ biết được rằng chúng ta đã từng tồn tại. Trái đất sẽ được trở về với sinh khí vẹn toàn của nó.”
Như vậy con người cần Trái đất để sống, để mơ mộng và sáng tạo, để yêu thương, để cống hiến… chứ Trái đất không nhất thiết cần đến con người. Con người đã gây ra trăm nghìn vết thương cho Trái đất nhưng Trái đất sẽ tự hồi sinh. 300 triệu năm để hồi sinh đối với Trái đất không phải là khoảng thời gian quá lớn. Trong khi mọi ngành đang quan tâm tới sinh thái toàn cầu thì Phê bình văn học Việt Nam, thiết nghĩ, không thể chậm hơn được nữa.
L.M.P
(TCSH339/05-2017)
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)