Khi người ta ba mươi tuổi

15:34 04/06/2008
Một lần ghé lại xưởng vẽ của Huy ở đường Trần Quang Khải thành phố Huế, tôi hơi bị bất ngờ trước cách nghĩ của Huy về thời gian. Trong căn phòng hẹp mờ bụi và ánh sáng, mùi sơn dầu ngai ngái, bức tranh “Đồng hồ máu” (tôi tạm đặt tên như vậy) cứ đỏ lên rờn rợn như một nỗi ám ảnh.

Huy bảo tôi đó là cách Huy đo thời gian. Quả thực là đã có những năm tháng, những thời điểm lịch sử được đo bằng... máu, và chỉ có máu đỏ là đại lượng duy nhất đo thời gian. Hai cuộc kháng chiến trường kỳ và xa hơn nữa là những cột mốc vệ quốc vĩ đại... đã cho tuổi trẻ của Huy một góc nhìn mãnh liệt đối với lịch sử và thời gian. tám tấn bom chia cho một đầu người, cỏ lau, bạt ngàn cỏ lau và bia mộ vùng đất Quảng Trị, đó là căn nguyên, là cội nguồn của một họa sĩ trẻ.
Như một thiên hướng tự nhiên, Huy đã vẽ rất nhiều về chiến tranh (mà có lẽ là Huy sẽ còn vẽ nhiều hơn nữa). Xem tranh của Huy, tôi chực sống lại một tuổi thơ chiến tranh, đêm đêm bơ phờ đạn pháo, chiếc hầm trú ẩn tối đen, mùi đất mốc xông lên thịt da, bóng đêm lặng lẽ và bí ẩn. Dường như chỉ có tiếng dế kêu ở đâu đó trong chiếc lỗ thông hơi là sự sống duy nhất làm an lòng tuổi thơ. Tám tấn bom chia cho một đầu người, cho nên tranh của Huy dày đặc hố bom. Mỗi hố bom là một nỗi buồn trống hoác. Không có cái chết nhưng vẫn có cảm giác rằng ai đó đã bưng mặt khóc nấc. Đằng sau, chung quanh, và phía dưới hố bom là những số phận không rõ ràng, những số phận còn để mở la liệt trước cuộc chiến tranh. Cái màu đỏ khốc liệt và những nét chuyển dần sang vàng và trắng xanh trên tranh Huy, đã nói với tôi điều đó. Huy vẽ về chiến tranh như một người đã mất tất cả trong cuộc chiến tranh, anh chỉ còn lại nỗi cô đơn, hai bàn tay lấm lem phẩm màu và một ký ức phập phồng trên da thịt. Và dưới ánh sáng hồ quang của một nỗi đau nhiều suy tưởng, ký ức ấy như ánh ma trơi lập loè sáng ở phía vắng con người. Ơ đó cỏ hoang mất mát đến tận đường chân trời và tích tắc, tích tắc... là tiếng đập duy nhất của chiếc đồng hồ máu lần lữa đo thời gian.
Có lần xem tranh của Huy tại một cuộc triển lãm chung, tôi tự hỏi là có phải Huy đã bị kịch hoá chiến tranh hay không? Điều thiết tha hơn là có chút hy vọng nào trong những đường nét gãy khúc, va đập dữ dội, những hố bom lỗ chỗ đau buồn ấy không? Có lúc thất vọng quá tôi đã quay mặt đi để cố nén một tiếng thở dài. Nhưng ô kìa lạ thay, khi ánh sáng từ khung cửa nhỏ bất chợt ùa vào đổ tràn trên những hố bom, màu xanh trắng u tối chuyển nhanh như những gợn sóng ngắn, khiến cho miệng hố bom lở lói là vậy, chợt khép lại đầy đặn như nụ cười bí ẩn của nàng Monalisa. Từ những đau đớn ê chề trái tim tôi tràn ngập niềm hy vọng. Cho đến khi ánh sáng tắt dần và mặt tranh chuyển dần sang màu đỏ sẫm, lòng tôi vẫn còn nghe tiếng cười vang vọng trên những hố bom...
Hôm trời Huế sang thu, gặp nhau ở quán trà Dimar trên đường Đội Cung, Huy nói với tôi rất nhiều về hội họa. Tôi còn nhớ là Huy đã nói về khối và những nét nghĩa, về những bất ổn mà Huy đeo đuổi. Giọng Huy khó khăn chìm trong tiếng hát trữ tình của Celine Dion. Không gian tràn ngập giai điệu đứt đoạn của tâm hồn. Cùng với sự dữ dội trong đề tài chiến tranh, Huy còn có một khoảng trời khác nó trong trẻo vô ngần. Đó là khi Huy nghịch đất, vẽ về tuổi thơ với tất cả sự dung dị hiền lành của một cậu bé nông thôn. Huy bảo rằng đây là một mảng đề tài lớn trong tranh Huy. Chỉ riêng  việc lựa chọn chất liệu bột màu, “ngôn ngữ” hội họa của Huy về tuổi thơ đã mang trong tự thân một sự hồn nhiên kỳ lạ của tranh dân gian. Cảm giác về sự gần gũi, được sống với cái ngày đã qua, những cánh diều no gió bay trên một bầu trời rực rỡ ánh nắng, mang lại niềm hạnh phúc không thể nói bằng lời. Từ những hố bom mắt trần, hố bom siêu thực đến tiếng sáo mục đồng... con đường hội họa của Huy cho thấy một thế giới nội tâm với những vết cắt nối day dứt, chưa một ngày bình yên. Hội họa của Huy là một thì quá khứ chưa hoàn thành, nó dở dang như chính đời sống bừa bộn những đam mê, mà Huy còn đeo đuổi... Đến với tranh Huy, nhiều người đã tìm thấy một tuổi thơ mà từ lâu mình đã đánh mất. Con đường làng với những dấu chân se lạnh và một bầu không gian mênh mông bầy bướm vàng như ký ức. Đó là Huy, là tôi, là bao bạn bè khác trong một sự hoá thân thơ dại, muốn “hái tuổi em đầy tay”. Có lần e ngại với màu vàng bỏng mắt trong tranh Huy, tôi hỏi có phải là Huy rất thích màu vàng không? Thường thì mỗi họa sĩ hay có riêng cho mình một “ngôn ngữ” màu sắc rất cá thể. Cái màu sắc được lựa chọn ấy sẽ là vốn sống, tình yêu và tài năng... là hơi thở riêng của một phong cách nghệ sĩ. Như Lêvitan chỉ thích màu vàng và Vangốc là màu nâu đen. Một bên là thế giới thiên nhiên u muộn, một bên là đời sống nội tâm, được lộn trái như người ta lộn trái một chiếc áo. Huy cười lặng lẽ và bảo “vàng và đỏ là hai màu sắc mà Huy yêu lúc nào không biết”. Yêu như bản năng được mách bảo, một sự điều khiển như là động cơ đốt trong của vô thức.
Như một lôgíc tự nhiên của đời sống, tuổi thơ trong tranh Huy gắn liền với một vùng quê nghèo khó. Tôi nghĩ trở về với mẹ với quê hương và tuổi thơ - đó là mảnh đất màu mỡ nhất để người nghệ sĩ có thể gieo trồng những tác phẩm nghệ thuật lớn. Huy cũng đã làm như vậy theo cách của Huy. Huy đã “định nghĩa” quê hương bằng những mảng màu nâu đỏ như những tảng đất phèn mặn nằm thảnh thơi theo những đường cày. Ở đó gương mặt người nông dân hiện ra chất phác, chiếc áo tơi đong đầy mưa thu và giá lạnh. Một cuộc sống yên lành. Cuộc sống mà có lần R.Tagore đã nức nở ca ngợi khi ông bảo rằng người nông dân là chúa của sự sáng tạo. Nhưng thảng hoặc tôi còn nhìn thấy đằng sau sự yên ả của làng quê trong tranh Huy, sau cánh đồng trơ vơ những gốc rạ, là số phận của người nông đang nghèo khó, lam lũ và cực nhọc. Những bức tranh quê của Huy giống như những giọt mồ hôi, nó mặn đắng tình yêu xứ sở. Có một cái gì đó như âm sắc của những câu hò ngân nhè nhẹ qua gam màu nâu sáng và đôi mắt tha thiết ruộng đồng của người nông dân. Có lý do để những bức tranh quê của Huy thường mang màu tối. Cái tối thao thức, chia sẻ với những cảnh đời thực nông thôn. Một buổi chiều mùa đông nhiều mưa, bầu trời nặng trĩu nước, màn nước lạnh phủ lên vạn vật một màu xám mờ. Và đâu đó tiếng hô “vắt”, “diệt” của người thợ cày tầm tã trong mưa. Gần như trong cuộc “trở về” với cố quận, Huy đã chịu một áp lực nặng nề từ phía tâm hồn. Đó là gợi cho đến tận cùng để những gam màu trung tính cất lên tiếng nói, là sống cho hết một lần này thôi những bước sóng lam-đa tinh tế chuyển rất mềm mại trong những nét vạch gấp khúc của tranh Huy. Như một người trẻ tuổi nhiều khát vọng, trong mỗi bức tranh mà Huy sáng tác là sự dồn nén của nhiều thế giới lên một thế giới. Có cảm giác mỗi centimét vuông trong tranh Huy là một khối thuốc nổ. Nổ âm ỉ, quyết liệt khi Huy muốn nói về chiến tranh và nổ lặng lẽ như một hư không khi Huy chập chững về với tuổi thơ nhiều thương cảm... Cái cách Huy làm cho màu sắc từ chỗ là phương tiện trở thành đối tượng, cho màu sắc tự tranh luận với nhau, đối thoại với nhau trên mặt phẳng đa hình, đã tạo ra những rung động song trùng. Khi màu sắc không chỉ là phương tiện của người họa sĩ, thì lúc ấy, cánh cửa hội họa đã một lần nữa mở toang để Huy tiếp cận gần hơn với cuộc sống đời thường.
Dù sao thì hội họa với Huy cũng là một cuộc phiêu lãng. Ơ đó cậu bé nhà quê là Huy vẫn thường mơ ôm cả bầu trời đầy sao, giấc mơ mà có lần A.Đôđê đã nhân hậu dành cho cậu bé chăn cừu. Dường như chưa bao giờ Huy vẽ về mặt đất, sự phiêu lãng của Huy nằm ở đường chân trời mà hiện thân là những miệng hố bom sâu hun hút trong nỗi buồn chiến tranh. Nhát cọ đầu tiên của Huy là những vệt gấp khúc của ký ức, nó làm cho không gian trong tranh Huy chật chội như là ngõ phố nhiều gánh hàng rong và những quán rượu của người lao động hiền lành. Tôi đã đi trong sự chật chội ấy để thấy ở Huy những khát vọng sống của đời thường. Những nhen nhóm nhỏ nhoi như ánh sáng của một ngọn nến được thắp lên bằng những mảng màu tím tái, hắt chiếc bóng buồn bã xuống đường chân trời mà giờ đây đã như một ảo giác hoang mạc xa xôi. Hôm ngồi lại với nhau ở quán cóc vỉa hè, Huy nói với tôi về sự “khủng hoảng” của hội họa và cả sự “bế tắc” vẫn thường thăm hỏi người nghệ sĩ mỗi khi cây cọ đã trở nên bất lực trước cuộc đời. Hôm ấy nắng có vẻ nhạt hơn ngày thường, hàng cây bằng lăng trên phố Huế mệt mỏi gieo những chiếc lá vàng vọt đầu tiên xuống lòng đường. Tôi nhớ là mình đã nói với Huy về Lêvitan, về sự yên tĩnh đời đời của hội họa. Suốt đời Lêvitan đã bị hắt hủi vì ông là người Do Thái. Chính vì vậy mà ông đã đến với thiên nhiên bằng một tình yêu cuồng nhiệt đầu tiên và cuối cùng. Qua thứ ánh sáng chập choạng của một chiều thu đã tối, tôi có cảm giác là Huy có vẻ buồn buồn, khuôn mặt ba mươi tuổi ấy sáng lên một sự bất an khó hiểu. Sau lưng Huy sắc trời đỏ ối màu ráng pha. Tôi nhìn qua vai Huy mà ước ao một ngày nào đó trên tranh Huy, thiên nhiên cũng nhiều như cuộc đời. Nụ cười của nàng Monalisa trên miệng hố bom sẽ tràn đầy ánh sáng và vang vọng những âm thanh bình dị của cuộc đời...
Hơn một trăm bức tranh, và nhiều lần tham dự các cuộc triển lãm, “gia tài” của họa sĩ trẻ Võ Xuân Huy đã đầy lên theo thời gian. Từ nét cọ đầu tiên thận trọng và tươi trẻ, Huy đã làm một cuộc lên đường. Tôi nghĩ một phong cách riêng bộc lộ mạnh mẽ tư tưởng và bản ngã đang là cái đích trên con đường hội họa của Huy...
Huế, 20-9-2002

HOÀNG BÌNH THI
(nguồn: TCSH số 154 - 12 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN BÌNH LAN

    Trong nghệ thuật Việt Nam hiện đại, hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh được nhiều nghệ sĩ trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật khai thác, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị cao dưới nhiều góc nhìn và nhiều phương pháp sáng tác khác nhau, vì thế, để có những cái nhìn mới và để có những tác phẩm lạ về hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh là một đề tài khó đối với nghệ sĩ hiện nay.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Mỹ cảm của một tờ báo hay một tờ tạp chí xuất phát từ đâu? Yếu tố quyết định mỹ cảm của người đọc đối với một tờ báo hay một tờ tạp chí nào đó phải chăng luôn khi nào cũng gắn với cái bìa của nó hay với một thành phần khác của nó hay không?

  • KHẢ HÂN

    “Lại về lại 2018” là triển lãm do Tạp chí Sông Hương tổ chức trong dịp Festival Huế 2018. Triển lãm với sự tham gia của các họa sĩ, nhà điêu khắc đang sinh sống tại Huế, tại thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Nam,… và những người bạn yêu Huế.

  • KHẢ HÂN

    “Một thoáng Tam Giang” là triển lãm lần thứ ba này của nhóm các họa sĩ trẻ Huế Ta được ánh xạ một cách tài tình qua những khúc ngẫu hứng ngân lên từ phá Tam Giang.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Trong những ngày cuối năm 2017, tại Trung tâm nghệ thuật Lê Bá Đảng & Điềm Phùng Thị đã diễn ra cuộc triển lãm mỹ thuật với chủ đề "Hội Ngộ".

  • LTS: 9 giờ sáng 17/7/2017, họa sĩ Vĩnh Phối đã trút hơi thở cuối cùng tại nhà riêng bên bờ sông Đông Ba - thành phố Huế, sau một thời gian sống chung với căn bệnh ung thư.

  • KHẢ HÂN

    Phác họa nên một bức chân dung, ở đó, hình thể trong tranh có thể tự mình truyền tải một thứ ngôn ngữ của riêng nó,…

  • THIÊN HÀ

    Một sự kiện văn hóa đáng lưu tâm trong kỳ Festival nghề truyền thống Huế 2017 là lễ hội áo dài với chủ đề Hội họa Huế và Áo dài, được diễn ra trên cầu Trường Tiền, bắt đầu Iúc 20 giờ đêm 30/4.

  • Tôn Thất Đào được các thế hệ họa sĩ tài hoa mệnh danh là một họa sĩ bậc thầy của Huế.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Họa sĩ Nguyễn Văn Tuyên không có xưởng vẽ, không treo tranh quanh nhà như nhiều họa sĩ khác.

  • AN PHÚ

    Hồi Cố - là tên của phòng triển lãm mỹ thuật trưng bày tác phẩm của các họa sĩ đã có nhiều đóng góp cho nền Mỹ thuật Thừa Thiên Huế và sự phát triển của tổ chức Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế.

  • TUỆ NGỌC

    Thầm lặng dường như là phong cách của họa sĩ trẻ Hoàng Đăng Khanh. Sự thầm lặng đó thể hiện trong nghệ thuật và cả trong cách sống của anh với cuộc đời.

  • TUỆ NGỌC

    Hội họa nói riêng và nghệ thuật thị giác nói chung của Huế đã có một thời kỳ rực rỡ với những tên tuổi cống hiến cho mảnh đất giàu văn hóa này như Tôn Thất Đào, Phạm Đăng Trí, Bửu Chỉ, Điềm Phùng Thị, Lê Bá Đảng, Đinh Cường, Hoàng Đăng Nhuận, Vĩnh Phối, Nguyễn Văn Tuyên…

  • Đến hẹn lại lên, các họa sĩ yêu Huế từ TP HCM, Đà Nẵng, Huế lại về bày tranh tại Tạp chí Sông Hương hưởng ứng Festival Huế 2016. Ngoài ba họa sỹ thân thương: Kim Long, Trương Đình Quế và Nguyễn Tuấn đã đi xa, những người còn ở lại vẫn tiếp tục đồng hành cuộc chơi của Nhóm “LẠI VỀ LẠI” đã được khởi động từ 2008. Phòng tranh “LẠI VỀ LẠI 2016” lần này, đã có thêm những tên tuổi mới.
    Sông Hương xin giới thiệu đến quý bạn đọc các tác giả tham gia phòng triển lãm tranh “LẠI VỀ LẠI 2016”, sẽ khai mạc tại Tạp chí Sông Hương từ 27/4/ tới đây.

  • ĐẶNG MẬU TỰU  

    Một sáng giữa tháng 2, tình cờ tôi được nhóm họa sĩ trẻ nội thành mời uống cà phê ở đường Thạch Hãn. Hôm ấy có khá đông anh em nhóm trẻ ở cà phê Rider, lâu mới gặp, chuyện trò rôm rả trên nền tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly quen thuộc cùng những ca khúc Trịnh Công Sơn.

  • TUỆ NGỌC

  • Họa sĩ Võ Xuân Huy sinh năm 1970, học Đại học Nghệ thuật Huế và sau đó trở thành giảng viên tại trường. Sự đột ngột ra đi của anh vào ngày 15/3 vừa rồi đã để lại khoảng trống đầy đau thương và ám ảnh trong lòng bạn bè; cũng gần như một thông điệp về cõi người vô thường dưới bầu trời quá rộng mà ở đó sự thành công chỉ đến khi năng lượng của kẻ sáng tạo được thắp sáng đổ bóng cả vào lòng đất tăm tối.
    Bài viết của Hoàng Diệp Lạc, thơ của Tịnh Thy và Phùng Tấn Đông là nén tâm nhang mà Sông Hương muốn gửi đến độc giả. 

  • HẠ NGUYÊN

    Trong cuộc đời, cái đánh thức ký ức của ta đến tận cùng sâu thẳm nhất, đó chỉ có thể là mưa.