Kế thừa và sáng tạo là vấn đề xưa nay đã từng được nhiều người quan tâm bàn luận. Tôi chỉ xin nói thêm đôi điều về mối quan hệ giữa kế thừa và sáng tạo trong sáng tác thi ca.
Tùng Thiện Vương Miên Thẫm - Xuân Diệu
Tùng Thiện Vương Miên Thẩm khẳng định: “Phàm một cái gì đó chẳng luận hay dở, đều có người trước dẫn đường”. Tuy nhiên, đối với Miên Thẩm, kế thừa phải có sáng tạo: “Cái mới của thơ, có khi là do dùng lại lời của cổ nhân có sửa đổi đi một hai chữ mà càng mới”. Ông phê phán gay gắt việc kế thừa mà không sáng tạo. Ông gọi đó là hiện tượng “hư ngôn” (bắt chước một cách máy móc, vụng về). Theo ông: “Nhạn và tuyết nước Nam ta không hề có. Mọi người cho rằng đó là hai chữ hay nên phần lớn thường dùng. Không biết rằng hư ngôn rốt cuộc chẳng có ích gì?” (Thương Sơn thi sao).
Nhà thơ Xuân Diệu thì nói một cách hết sức dí dỏm: “Ăn cắp cái hay của người khác, nhưng phải biết phi tang để không ai biết, thì nó sẽ là của mình”. “Ăn cắp” là nhà thơ muốn nói đến kế thừa, còn “phi tang” là sáng tạo. Trong bài tiểu luận Sự uyên bác với việc làm thơ, Xuân Diệu thật thà “khai báo” mình đã “ăn cắp” và “phi tang”như thế nào: “Tháng mười năm 1981, khi nói chuyện tại Đại học Soóc-bon Pa-ri về đề tài tình yêu trong thơ Xuân Diệu, bài thơ tình mà tôi dẫn đầu tiên là bài Yêu là chết ở trong lòng một ít, vì trong bài thơ ấy tôi vay mượn của thi sĩ Pháp. Tôi muốn người Pháp thấy một thi sĩ Việt Nam chân thực đền ơn trả nghĩa và cũng uyên bác, họ sẽ vui, và tôi sẽ đắc nhân tâm, mà đắc nhân tâm tức là được chính trị.
Nhà thơ Pháp Ê-mông có bài thơ ngắn rất nổi tiếng Đi là chết ở trong lòng một ít. Đúng quá, những lứa đôi muôn đời đứt gan đứt ruột phải biệt xa nhau. Khoảng 1934-1935, tôi đang yêu, bèn vận vào mình và chuyển sang Yêu là chết ở trong lòng một ít/ Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu/ Cho rất nhiều, nhưng nhận chẳng bao nhiêu. Câu thứ ba tôi lấy dáng dấp một câu trong bài thơ tình duy nhất của A-rơ-vét (1806-1850). Tất cả sự nghiệp sáng tác của ông đã vào trong lãng quên, duy có bài Lòng ta chôn một mối tình là sống mãi. Trong đó, câu: Dù anh có đi trọn con đường trần thế/ Chẳng dám xin và chưa hề nhận được gì, tôi chuyển thành Cho rất nhiều, nhưng nhận chẳng bao nhiêu”.
Mà đâu chỉ có Xuân Diệu, nếu tỉ mẩn đối chiếu, so sánh ta sẽ phát hiện không ít những trường hợp “ăn cắp” và “phi tang” một cách khá tài tình như thế trong kho tàng văn học nước nhà. Chẳng hạn đoạn thơ sau đây: Li khách! Li khách con đường nhỏ/ Chí nhớn chưa về bàn tay không/ Thì không bao giờ nói trở lại/ Ba năm mẹ già cũng đừng mong (Tống biệt hành) của Thâm Tâm phảng phất hơi hướng giọng Kinh Kha: Phong tiêu tiêu hề Dịch thuỷ hàn/ Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn.
Hai câu thơ: Một chiếc linh hồn nhỏ/ Mang mang thiên cổ sầu (Huy Cận) ảnh hưởng ít nhiều bốn câu thơ của Trần Tử Ngang trong Đăng U Đài ca: Tiền bất kiến cổ nhân. Hậu bất kiến lai giã/ Niệm thiện địa chi du du/ Độc thương nhiên như thế hạ. Câu: Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa (Huy Cận) gợi nhớ hai câu thơ nổi tiếng của Vương Bột: Lạc hà dữ cô lộ tề phi/ Thuy thủy cọng trường thiên nhất sắc…
Xét cho cùng, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đều là những tác phẩm kế thừa trên cơ sở tầm hiểu biết sâu rộng nền văn học cổ Trung Quốc. Chẳng hạn, muốn viết được câu: Trước sau nào thấy bóng người/ Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông, thi hào Nguyễn Du phải nằm lòng hai câu thơ nổi tiếng của Thôi Hộ: Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong. Như vậy, muốn kế thừa thì phải có hiểu biết, có kiến thức. Mà muốn có hiểu biết, có kiến thức thì không thể không học, không đọc tiền nhân. Vấn đề là đối với người làm thơ phải đọc và học như thế nào?
Bàn về sự học, Khổng Tử cho rằng: “Đã gọi là thầy thì không phân biệt cao thấp, cứ hơn nửa chữ là có thể làm thầy. Chung quy chia làm hai hạng tiên sư và tục sư. Hạng tiên sư vì người mà dạy cách làm người. Hạng tục sư vì tiền mà dạy cách làm tiền. Hạng tiên sư kéo kiến thức trong bụng học trò ra. Hạng tục sư nhét kiến thức từ ngoài vào. Tin theo tiên sư thì con người là tiểu vũ trụ. Tin theo tục sư thì con người là cái thùng chứa sách…”.
Thiết nghĩ, những lời này của Khổng Tử đáng cho chúng ta tham khảo trong việc cải cách dạy và học hiện nay. Đối với người làm thơ những lời này cũng phần nào định hướng cho việc lựa chọn tác giả, tác phẩm để đọc, để học, để tích lũy kiến thức, kinh nghiệm trong sáng tác.
Theo Mai Văn Hoan - GD&TĐ
Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.
Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.
Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).
Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.
Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.
NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.
“Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.
Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.
Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.
Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).
Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).
Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.
Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.
Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.
Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...
Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.
Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.