Inrasara nhà nghiên cứu văn hoá Chăm (1)

10:13 16/10/2009
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

(Ảnh: izon.vn)

Nói tới Inrasara mà chỉ nói đến thơ thì chưa đủ, mặc dù thơ của Inrasara khá hiện đại. Nói đến Inrasara mà chỉ nói đến dịch thuật hoặc đề cập tới phê bình văn học, thì hẳn vẫn còn thiếu sót, mặc dù tiểu luận của Inrasara sắc sảo và đầy tính lí luận. Chúng tôi muốn nhấn mạnh đến một chân dung khác: chân dung Inrasara- nhà nghiên cứu văn hoá Chăm.

Cũng xin nói ngay: mệnh đề Inrasara - nhà nghiên cứu văn hoá Chăm, được đặt ra ở đây, vừa có ý nghĩa chuyên môn vừa có tính ước lệ. Chuyên môn, bởi danh xưng ấy đã gọi ra cái vùng thâm canh của Inrasara. Ước lệ, vì thực ra cái phông nền văn hoá Việt, ở anh cũng rất chắc, thậm chí có thể nói tài hoa. Có thể tìm những điều ấy trên những trang viết đầy tâm huyết của anh.

Sáng tác của Inrasara có thể che lấp được những định kiến hẹp hòi, hoặc những mĩ cảm cũ kĩ. Anh dám vượt mình với vẻ ngạo nghễ cần có, dám vượt qua những lực cản bên ngoài một cách đàng hoàng. Inrasara góp công không nhỏ vào công cuộc đổi mới văn học, đổi mới cách tư duy và lối viết. Inrasara đã làm thức dậy linh hồn Chăm, văn hoá Chăm. Nhiều công trình về văn hoá Chăm của anh đã được giải thưởng cao quí.

Inrasara sinh năm 1957 tại làng Chakleng, một làng Chăm duy nhất có tên trên bi kí cổ Chămpa. Cho nên Inrasara được hít thở không khí Chăm từ thuở thiếu thời,được tắm gội trên con sông Chăm đã ngàn năm tuổi. Văn hoá Chăm thấm vào Inrasara một cách tự nhiên.

Trong tâm thức của Sara có một dòng sông Chăm ngày đêm thao thiết chảy, thao thức với sự lở bồi của văn hoá Chăm truyền thống. Inrasara tâm sự: có biết bao con sông Chăm nuôi nấng, vỗ về tâm hồn tôi, “có biết bao con sông, mương đầm khuất đi không còn lại dấu vết, nhưng tên của chúng, sức sống của chúng vẫn vang vang ở bề đáy tâm thức tôi”. Sức sống ấy, nguồn sống ấy đã dồn tụ vào hình tượng sông Lu ở vùng thơ Sara rất đỗi thân thiết.

Tôi chợt nghĩ thế này: mỗi một nhà thơ có lẽ nên được tắm gội trên một dòng sông nào đó. Nói cụ thể hơn: tên tuổi của anh ta, sự nghiệp của anh ta cần phải gắn bó với dòng sông. Thậm chí phải giống với hành trình vươn ra biển cả của sông nước. Chẳng hạn Nguyễn Khắc Hiếu gắn với sông Đà; Hoàng Cầm về với sông Đuống, Dương Thuấn hát với sông Năng, Đỗ Trung Lai mê đắm một khúc “sông Cầu”, Nguyễn Tuân trấn giữ Đà giang đỏng đảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường cai quản sông Hương thơ mộng... còn thi phận Sara thì phải gắn với sông Lu.

Sara gắn bó với sông Chăm, chung thủy với sông Chăm. Năm 25 tuổi, Sara được mời tham gia Biên soạn sách chữ Chăm ở Ninh Thuận. Năm năm sau, Sara thôi việc để được tự do nghiên cứu văn hoá. Những tưởng ngòi bút của Sara được thăng hoa tung tẩy sau sự biến ấy, ngờ đâu chỉ mấy năm tiếp, Sara lại bị “lôi vào” Trung tâm nghiên cứu Việt Nam- Đông Nam Á để nghiên cứu văn hoá Chăm.

Cuộc đời của Sara có nhiều thăng trầm. Trước năm 90, có một Sara vừa vô định vừa quẩn quanh, vừa bấp bênh vừa “trì đọng”: đi học rồi bỏ học; tham gia nghiên cứu rồi thôi việc để được tự do; được tự do xê dịch bỗng lại bị gọi về làm công việc nghiên cứu,… Chúng ta chỉ có Sara- một nhà nghiên cứu Chăm thực sự khi anh cởi bỏ được mọi trói buộc để lang thang trên các làng Chăm. Chúng ta chỉ có Sara - nhà thơ Chăm khi anh biết tiếp thu ngôn ngữ Chăm, biết mở rộng tâm hồn đón nhận ngọn gió Chăm tràn trề sinh lực.

 Có lẽ không phải chỉ Sara mới yêu mến văn hoá Chăm, mà văn hoá Chăm đã chọn Sara từ tiền kiếp.

Sara “có một tập thơ sáng tác bằng tiếng Chăm và một bộ sưu tập văn học cổ điển Chăm” từ hồi còn đi học. Năm 1975 Sara khởi thảo Từ điển Việt - Chăm. Năm 1992, anh hoàn thành bộ sách Văn học Chăm. Năm 1984 biên soạn Từ vựng học tiếng Chăm. Năm 1994, viết xong Văn học Chăm I- Khái luận. Năm 1995, in Văn học dân gian Chăm. Sau cuốn Văn học Chăm II- Trường ca (1995), Inrasara công bố tập tiểu luận Các vấn đề Văn hoá xã hội Chăm (1999). Năm 2003, Inrasara cho in cuốn Văn hoá xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại… Càng ngày công trình của Inrasa càng dày dặn. Tất thảy sự kiện này, đều chứng tỏ bút lực của Inrasara khá dồi dào, sức viết, sức nghĩ, sức đi... của anh rất lớn. Nếu kể hết tác phẩm nghiên cứu, sưu tầm, hoặc các sáng tác đề cập đến văn hoá Chăm của Inrasara cho đến lúc này lên tới vài ngàn trang sách. Nói đến Inrasara nên hình dung về một “vùng Chăm” cổ kính…

 Sáng tác và nghiên cứu ở Inrasara luôn song hành với nhau. Có thể nói chúng đã hoà vào nhau, chuyển hoá cho nhau. Cảm hứng sáng tác thôi thúc Inrasara sưu tầm, nghiên cứu. Công việc nghiên cứu văn hoá Chăm ở Sara đơm hoa rồi kết thành những trái thơ ngọt ngào.

Inrasara nói: bên cạnh việc sưu tầm, nghiên cứu, “tôi phải nhìn sông Lu từ một chiều kích khác, đến với sông Lu bằng những bước đi khác”. Nàng thơ hiểu tâm nguyện ấy của Inrasara nên xuất hiện kịp thời. Ả thơ tự nguyện thực hiện chức năng mang chở văn hoá. Thơ Inrasara kết đọng vẻ đẹp của văn hoá Chăm. Thơ của Inrasara biểu hiện cái nhìn đầy suy tư về con người Chăm, tâm tính Chăm. Có một “vườn Chăm” trong thơ Inrasara.

Inrasara có một quan niệm rất đẹp về thiên chức của mỗi con dân Chăm. Với anh, người Chăm phải tự gánh trách nhiệm khai vỡ văn hoá của dân tộc mình. Người Chăm phải tự lực khi xây dựng văn hoá. Quan niệm đó trở thành niềm tin và lí tưởng thôi thúc Inrasara hành động. Inrasara đã cứu nền văn hoá, văn học Chăm khỏi nguy cơ thất truyền. Anh tự mày mò học chữ Chăm cổ, rồi rong ruổi khắp các làng bản để sao chép lại những vốn Chăm vô cùng quí giá. Inrasara không cần kĩ thuật hiện đại nào, mà cũng làm được thứ “ngọc Chăm” thực thụ.

Hành trình về nguồn của Inrasara có thể ví với sự lãng du trong văn hoá dân tộc không? Tôi nghĩ không nên qui về mối ấy. Bởi lẽ trách nhiệm công dân của anh đã bộc lộ rõ ràng từ điểm xuất phát. Inrasara dấn thân vào văn hoá Chăm với nhiều vui buồn rất đỗi trong sáng. Lúc nhỏ tuổi Sara đã khao khát khám phá khuôn mặt dân tộc mình. Khi thiếu thốn, Sara vẫn hăm hở lên đường thực hiện sứ mệnh thiêng liêng. Vào giai đoạn khó khăn chồng chất, vậy mà Sara vẫn “nhiệt tình đến với chữ nghĩa cha ông”. Nếu không “mê ngôn ngữ Chăm và cái âm vang của lời”, chắc hẳn Inrasara đã rời bỏ cuộc chơi từ lâu lắm.

 Thật khó hình dung nổi, “sự thóc mách về văn hoá” của Inrasara đặc biệt đến nỗi - mỗi khi thấy bà con Chăm chửi bới nhau, anh liền chạy tới nghe, nghe cho hết trận cãi ấy. Anh bảo đến đó được “nghe âm vang của lời, rồi ghi”. Theo sự quan sát của tôi, thì chỉ mình Inrasara mới biết lắng lại để nghe “các tục ngữ, thành ngữ Chăm bật ra theo tiếng chửi rủa, cãi vã”. Mà cũng nhờ có quá trình lượm lặt thế này, về sau khi biên soạn, Inrasara đã làm giàu có hơn văn học dân gian Chăm.

Công của Inrasara thì nhiều, thâu lại gồm mấy điểm sau:

Về ngôn ngữ Chăm, tiếng nói Chăm:

Inrasara sớm có những nhận xét đích đáng về “chuyện chữ”. Anh kể chuyện “chữ hoang” đầy vẻ bí ẩn, và kể huyền thoại về chữ cũng thật hấp dẫn. Những trang viết về “đám tang chữ” của anh vừa lạ vừa sống động. Đọc kĩ Inrasara chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về thân phận của chữ Chăm hôm nay. Tôi chợt nghĩ phải hiểu cơn hấp hối của tiếng Chăm đương đại thì mới chia sẻ được với Inrasara về tính cấp thiết của việc cứu sống nó.

Inrasara đã bước đầu chuẩn hoá, thậm chí làm cho ngôn ngữ Chăm phong phú hơn trước rất nhiều. Điều này biểu hiện ở bốn phương diện. Thứ nhất: Inrasara đã cùng với Bùi Khánh Thế, Lương Đức Thắng,… biên soạn bộ Từ điển Chăm - Việt, Từ điển Việt- Chăm. Khi biên soạn họ đã sáng tạo ra một số chữ mới, và bổ sung được khá nhiều từ mới. Thứ hai: Inrasara đã có nhiều sáng tác thơ bằng tiếng Chăm, việc sáng tác này vừa để giữ gìn tiếng nói dân tộc vừa làm cho vốn từ Chăm giàu có hơn. Thứ ba: Inrasara đã từng tổ chức lớp dạy tiếng Chăm để cứu vãn tiếng Chăm khỏi cơn thương khó. Cuối cùng: Inrasara đã cất công sưu tầm, rồi nghiên cứu tỉ mỉ văn học Chăm cổ.

Về văn học Chăm:

 Inrasara có công sưu tầm - nghiên cứu và dịch văn học Chăm. Sara chịu khó đi, chịu khó tìm tòi, sao chép, và hệ thống lại Trường ca, tục ngữ, thành ngữ, câu đố Chăm… Anh nói để có những tư liệu cực kì quí hiếm, để có được nó, anh đã phải đánh đổi cả tuổi thanh xuân của mình. Đối với sử thi, Sara đã vận dụng thao tác so sánh để chỉ ra sự gần gũi cùng điểm khác biệt giữa sử thi Chăm và sử thi các dân tộc thiểu số
khác. Sara rất nghiêm túc khi truy tìm nguồn gốc sử thi, chính anh đã có những lí giải hợp lí về một số thuật ngữ thuộc vùng sử thi này. Đối với truyện cổ, Sara đem lại sự tin cậy về tư liệu cho giới chuyên môn.  Đối với lục bát Chăm, Inrasara đã gợi ra không ít điểm lí thú, mà người đến sau nếu đam mê có thể dựa vào đó để viết những công trình nghiên cứu sâu sắc hơn thế.

Ngoài công việc sưu tầm, nghiên cứu, Inrasara còn tuyên truyền, quảng bá văn học Chăm, văn hoá Chăm trên một diện rộng. Dẫu có công lớn đến vậy, song việc sưu tầm, nghiên cứu… của Inrasara lúc đầu còn nặng quá khứ. Mãi về sau, trong bối cảnh hội nhập, anh mới quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề thời sự văn học Chăm. Inrasara đã “gợi mở và gợi hứng sáng tạo” cho các thế hệ Chăm trẻ.

Nếu chúng ta đồng thuận với nhận định: trước Inrasara giới nghiên cứu lẫn độc giả phổ thông chưa hề nhận ra một nền văn học Chăm thì theo tôi nên phân định rõ hơn một chút nữa, rằng: công làm sáng giá văn học Chăm thuộc về chủ thể sáng tạo, còn công làm sáng giá nền văn học ấy, cho đến thời điểm này - cần phải ghi nhận cho Inrasara.

Về văn hoá Chăm:

Inrasara ca ngợi truyền thống hiếu học của dân tộc Chăm. Anh chú ý không chỉ tới kẻ có bằng cấp mà còn cả người không có bằng cấp gì. Đúng ra, anh dành sự quan tâm nhiều hơn đến những con người tự đào tạo. Anh phê phán những kẻ được đào tạo bài bản mà không chịu tìm học thêm,anh rất ghét những kẻ an tâm ăn mòn mớ kiến thức lạc hậu.

Inrasara chỉ ra có hai loại văn hoá: văn hoá sách vở, tức thứ văn hoá tĩnh và văn hoá nhân dân, tức loại văn hoá động. Loại văn hoá thứ nhất dẫu cần thiết, nhưng không sinh hoá, chỉ có loại văn hoá thứ hai mới được sinh thành liên tục trong cộng đồng và cho cộng đồng.

Inrasara nêu bật vấn đề bảo tồn văn hoá dân tộc. Trong nhiều bài viết của mình, anh khẳng định để bảo tồn văn hoá dân tộc “cần có tấm lòng và phương pháp làm việc đúng đắn”. Mặc dù Inrasara không nói rõ ràng, nhưng tôi đọc thấy trong trang viết của anh một quan niệm khá thú vị rằng: muốn bảo tồn văn hoá thành công, mọi dân tộc cần phải có “khả năng tự vệ”. Nếu không có sự tự vệ này, bất kì nền văn hoá nào cũng tất yếu bị suy thoái rồi dần dần bị diệt vong. Ngược lại, nếu có khả năng tự vệ, dân tộc ấy dù có hiện đại hoá để hòa nhập đi nữa cũng sẽ vẫn giữ được bản sắc của dân tộc mình.

Mặc dù Inrasara luôn nói tới “Chăm tính”, song chưa bao giờ anh tự biến mình thành kẻ giữ kho cho cha ông. Tôi thấy, bên cạnh việc bảo tồn, bảo lưu vốn cổ, Inrasara đã thường xuyên nhắc nhở đến công việc tiếp thu, với anh tiếp thu để sáng tạo ra cái mới.

Inrasara bám sát đời sống văn hóa Chăm đương đại. Có thể nói quang phổ kiến văn của anh tương đối rộng. Tôi thấy, anh có thể kể vanh vách những thành tựu về mỹ thuật của Chăm. Lại thấy anh hào hứng nói về hoạt động của ca - múa - nhạc. Khi nói về kiến trúc, anh cũng tỏ ra mình rất thức thời. Bàn về lễ hội dân gian Chăm, hoặc thổ cẩm Chăm, những ý kiến của Inrasara đượm vẻ trẻ trung và hiện đại. Còn nhận định về văn chương Chăm thì khỏi phải nhắc lại.

Tựu trung, Inrasara đã phác dựng được khuôn mặt văn hoá Chăm từ truyền thống đến hiện đại.

Về xã hội Chăm:

Từ việc điểm lại nhiều cuộc thiên di lớn của người Chăm trong lịch sử nước nhà, Inrasara đã dành nhiều trang viết về các thế hệ Chăm Panduranga.

Đọc Inrasara, tôi thấy anh xông xáo bàn về các vùng mờ của xã hội Chăm và văn hóa Chăm cổ. Các trang viết về chế độ mẫu hệ Chăm, hoặc về họ Chăm của anh vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có tính chất lí luận.

 Sara đã trực diện với những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc. Chẳng hạn anh thẳng thắn nhìn nhận vấn đề thân phận dân tộc, nghiêm túc nghĩ về thế đứng của con người Chăm hôm nay. Anh thừa nhận: trong xu hướng toàn cầu hoá, khi Việt Nam gia nhập WTO, cơ cấu xã hội nông thôn Chăm bị phá vỡ, đất ruộng ngày càng bị thu hẹp, số hộ không còn đất canh tác tăng theo cấp số nhân,…

Từ thực tế trên, Inrasara nêu lên nhiều vấn đề thiết thực đối với một dân tộc và nói nhiều tới sứ mệnh của trí thức. Với anh, trí thức trước tiên phải biết tỏ thái độ trước thời cuộc, rồi phải thường xuyên tham gia các hoạt động trí tuệ có tính chất cộng đồng; trí thức không chỉ biết tự đặt lên vai mình trách nhiệm xã hội, mà còn nên tự nguyện gánh vác lấy nó suốt đời, thậm chí sẵn sàng sống chết cho nó. Inrasara luôn xét trí thức trong quan hệ với cộng đồng, với dân tộc. Anh bàn sâu tới bản lĩnh trí thức, anh xét tâm thế cùng tri kiến đích thực của trí thức ở từng hoàn cảnh cụ thể. Tôi xem quan điểm vừa nêu của Inrasara rất đúng đắn và đặc biệt cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Inrasara lo cho sinh phận Chăm với một lòng chân thành rất mực. Anh nói về xã hội Chăm, con người Chăm từ một tinh thần mở, một thái độ mở. Anh bảo “chúng ta dù muốn hay không cũng phải lên đường cùng nhân loại”.

Trước Inrasara hiếm có người nào sòng phẳng nói đến cùng các khuyết điểm của mình, lại càng ít người chế ngự được các thói tật của bản thân. Chỉ đến thế hệ Inrasara, mẫu người Inrasara thì sự tự tri mới trở nên có ý nghĩa to lớn đối với chính chủ thể văn hoá Chăm, xã hội Chăm. Tôi khâm phục cái ý chí tự mổ xẻ các khuyết tật Chăm ở anh.

Tôi tin người ta còn nói nhiều đến Inrasara hơn nữa.

T.T.K
(247/09-09)

----------------
(1) Đọc lại Inrasara. Văn hoá - xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại. Nxb Văn học, 2008





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.