Inrasara nhà nghiên cứu văn hoá Chăm (1)

10:13 16/10/2009
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

(Ảnh: izon.vn)

Nói tới Inrasara mà chỉ nói đến thơ thì chưa đủ, mặc dù thơ của Inrasara khá hiện đại. Nói đến Inrasara mà chỉ nói đến dịch thuật hoặc đề cập tới phê bình văn học, thì hẳn vẫn còn thiếu sót, mặc dù tiểu luận của Inrasara sắc sảo và đầy tính lí luận. Chúng tôi muốn nhấn mạnh đến một chân dung khác: chân dung Inrasara- nhà nghiên cứu văn hoá Chăm.

Cũng xin nói ngay: mệnh đề Inrasara - nhà nghiên cứu văn hoá Chăm, được đặt ra ở đây, vừa có ý nghĩa chuyên môn vừa có tính ước lệ. Chuyên môn, bởi danh xưng ấy đã gọi ra cái vùng thâm canh của Inrasara. Ước lệ, vì thực ra cái phông nền văn hoá Việt, ở anh cũng rất chắc, thậm chí có thể nói tài hoa. Có thể tìm những điều ấy trên những trang viết đầy tâm huyết của anh.

Sáng tác của Inrasara có thể che lấp được những định kiến hẹp hòi, hoặc những mĩ cảm cũ kĩ. Anh dám vượt mình với vẻ ngạo nghễ cần có, dám vượt qua những lực cản bên ngoài một cách đàng hoàng. Inrasara góp công không nhỏ vào công cuộc đổi mới văn học, đổi mới cách tư duy và lối viết. Inrasara đã làm thức dậy linh hồn Chăm, văn hoá Chăm. Nhiều công trình về văn hoá Chăm của anh đã được giải thưởng cao quí.

Inrasara sinh năm 1957 tại làng Chakleng, một làng Chăm duy nhất có tên trên bi kí cổ Chămpa. Cho nên Inrasara được hít thở không khí Chăm từ thuở thiếu thời,được tắm gội trên con sông Chăm đã ngàn năm tuổi. Văn hoá Chăm thấm vào Inrasara một cách tự nhiên.

Trong tâm thức của Sara có một dòng sông Chăm ngày đêm thao thiết chảy, thao thức với sự lở bồi của văn hoá Chăm truyền thống. Inrasara tâm sự: có biết bao con sông Chăm nuôi nấng, vỗ về tâm hồn tôi, “có biết bao con sông, mương đầm khuất đi không còn lại dấu vết, nhưng tên của chúng, sức sống của chúng vẫn vang vang ở bề đáy tâm thức tôi”. Sức sống ấy, nguồn sống ấy đã dồn tụ vào hình tượng sông Lu ở vùng thơ Sara rất đỗi thân thiết.

Tôi chợt nghĩ thế này: mỗi một nhà thơ có lẽ nên được tắm gội trên một dòng sông nào đó. Nói cụ thể hơn: tên tuổi của anh ta, sự nghiệp của anh ta cần phải gắn bó với dòng sông. Thậm chí phải giống với hành trình vươn ra biển cả của sông nước. Chẳng hạn Nguyễn Khắc Hiếu gắn với sông Đà; Hoàng Cầm về với sông Đuống, Dương Thuấn hát với sông Năng, Đỗ Trung Lai mê đắm một khúc “sông Cầu”, Nguyễn Tuân trấn giữ Đà giang đỏng đảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường cai quản sông Hương thơ mộng... còn thi phận Sara thì phải gắn với sông Lu.

Sara gắn bó với sông Chăm, chung thủy với sông Chăm. Năm 25 tuổi, Sara được mời tham gia Biên soạn sách chữ Chăm ở Ninh Thuận. Năm năm sau, Sara thôi việc để được tự do nghiên cứu văn hoá. Những tưởng ngòi bút của Sara được thăng hoa tung tẩy sau sự biến ấy, ngờ đâu chỉ mấy năm tiếp, Sara lại bị “lôi vào” Trung tâm nghiên cứu Việt Nam- Đông Nam Á để nghiên cứu văn hoá Chăm.

Cuộc đời của Sara có nhiều thăng trầm. Trước năm 90, có một Sara vừa vô định vừa quẩn quanh, vừa bấp bênh vừa “trì đọng”: đi học rồi bỏ học; tham gia nghiên cứu rồi thôi việc để được tự do; được tự do xê dịch bỗng lại bị gọi về làm công việc nghiên cứu,… Chúng ta chỉ có Sara- một nhà nghiên cứu Chăm thực sự khi anh cởi bỏ được mọi trói buộc để lang thang trên các làng Chăm. Chúng ta chỉ có Sara - nhà thơ Chăm khi anh biết tiếp thu ngôn ngữ Chăm, biết mở rộng tâm hồn đón nhận ngọn gió Chăm tràn trề sinh lực.

 Có lẽ không phải chỉ Sara mới yêu mến văn hoá Chăm, mà văn hoá Chăm đã chọn Sara từ tiền kiếp.

Sara “có một tập thơ sáng tác bằng tiếng Chăm và một bộ sưu tập văn học cổ điển Chăm” từ hồi còn đi học. Năm 1975 Sara khởi thảo Từ điển Việt - Chăm. Năm 1992, anh hoàn thành bộ sách Văn học Chăm. Năm 1984 biên soạn Từ vựng học tiếng Chăm. Năm 1994, viết xong Văn học Chăm I- Khái luận. Năm 1995, in Văn học dân gian Chăm. Sau cuốn Văn học Chăm II- Trường ca (1995), Inrasara công bố tập tiểu luận Các vấn đề Văn hoá xã hội Chăm (1999). Năm 2003, Inrasara cho in cuốn Văn hoá xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại… Càng ngày công trình của Inrasa càng dày dặn. Tất thảy sự kiện này, đều chứng tỏ bút lực của Inrasara khá dồi dào, sức viết, sức nghĩ, sức đi... của anh rất lớn. Nếu kể hết tác phẩm nghiên cứu, sưu tầm, hoặc các sáng tác đề cập đến văn hoá Chăm của Inrasara cho đến lúc này lên tới vài ngàn trang sách. Nói đến Inrasara nên hình dung về một “vùng Chăm” cổ kính…

 Sáng tác và nghiên cứu ở Inrasara luôn song hành với nhau. Có thể nói chúng đã hoà vào nhau, chuyển hoá cho nhau. Cảm hứng sáng tác thôi thúc Inrasara sưu tầm, nghiên cứu. Công việc nghiên cứu văn hoá Chăm ở Sara đơm hoa rồi kết thành những trái thơ ngọt ngào.

Inrasara nói: bên cạnh việc sưu tầm, nghiên cứu, “tôi phải nhìn sông Lu từ một chiều kích khác, đến với sông Lu bằng những bước đi khác”. Nàng thơ hiểu tâm nguyện ấy của Inrasara nên xuất hiện kịp thời. Ả thơ tự nguyện thực hiện chức năng mang chở văn hoá. Thơ Inrasara kết đọng vẻ đẹp của văn hoá Chăm. Thơ của Inrasara biểu hiện cái nhìn đầy suy tư về con người Chăm, tâm tính Chăm. Có một “vườn Chăm” trong thơ Inrasara.

Inrasara có một quan niệm rất đẹp về thiên chức của mỗi con dân Chăm. Với anh, người Chăm phải tự gánh trách nhiệm khai vỡ văn hoá của dân tộc mình. Người Chăm phải tự lực khi xây dựng văn hoá. Quan niệm đó trở thành niềm tin và lí tưởng thôi thúc Inrasara hành động. Inrasara đã cứu nền văn hoá, văn học Chăm khỏi nguy cơ thất truyền. Anh tự mày mò học chữ Chăm cổ, rồi rong ruổi khắp các làng bản để sao chép lại những vốn Chăm vô cùng quí giá. Inrasara không cần kĩ thuật hiện đại nào, mà cũng làm được thứ “ngọc Chăm” thực thụ.

Hành trình về nguồn của Inrasara có thể ví với sự lãng du trong văn hoá dân tộc không? Tôi nghĩ không nên qui về mối ấy. Bởi lẽ trách nhiệm công dân của anh đã bộc lộ rõ ràng từ điểm xuất phát. Inrasara dấn thân vào văn hoá Chăm với nhiều vui buồn rất đỗi trong sáng. Lúc nhỏ tuổi Sara đã khao khát khám phá khuôn mặt dân tộc mình. Khi thiếu thốn, Sara vẫn hăm hở lên đường thực hiện sứ mệnh thiêng liêng. Vào giai đoạn khó khăn chồng chất, vậy mà Sara vẫn “nhiệt tình đến với chữ nghĩa cha ông”. Nếu không “mê ngôn ngữ Chăm và cái âm vang của lời”, chắc hẳn Inrasara đã rời bỏ cuộc chơi từ lâu lắm.

 Thật khó hình dung nổi, “sự thóc mách về văn hoá” của Inrasara đặc biệt đến nỗi - mỗi khi thấy bà con Chăm chửi bới nhau, anh liền chạy tới nghe, nghe cho hết trận cãi ấy. Anh bảo đến đó được “nghe âm vang của lời, rồi ghi”. Theo sự quan sát của tôi, thì chỉ mình Inrasara mới biết lắng lại để nghe “các tục ngữ, thành ngữ Chăm bật ra theo tiếng chửi rủa, cãi vã”. Mà cũng nhờ có quá trình lượm lặt thế này, về sau khi biên soạn, Inrasara đã làm giàu có hơn văn học dân gian Chăm.

Công của Inrasara thì nhiều, thâu lại gồm mấy điểm sau:

Về ngôn ngữ Chăm, tiếng nói Chăm:

Inrasara sớm có những nhận xét đích đáng về “chuyện chữ”. Anh kể chuyện “chữ hoang” đầy vẻ bí ẩn, và kể huyền thoại về chữ cũng thật hấp dẫn. Những trang viết về “đám tang chữ” của anh vừa lạ vừa sống động. Đọc kĩ Inrasara chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về thân phận của chữ Chăm hôm nay. Tôi chợt nghĩ phải hiểu cơn hấp hối của tiếng Chăm đương đại thì mới chia sẻ được với Inrasara về tính cấp thiết của việc cứu sống nó.

Inrasara đã bước đầu chuẩn hoá, thậm chí làm cho ngôn ngữ Chăm phong phú hơn trước rất nhiều. Điều này biểu hiện ở bốn phương diện. Thứ nhất: Inrasara đã cùng với Bùi Khánh Thế, Lương Đức Thắng,… biên soạn bộ Từ điển Chăm - Việt, Từ điển Việt- Chăm. Khi biên soạn họ đã sáng tạo ra một số chữ mới, và bổ sung được khá nhiều từ mới. Thứ hai: Inrasara đã có nhiều sáng tác thơ bằng tiếng Chăm, việc sáng tác này vừa để giữ gìn tiếng nói dân tộc vừa làm cho vốn từ Chăm giàu có hơn. Thứ ba: Inrasara đã từng tổ chức lớp dạy tiếng Chăm để cứu vãn tiếng Chăm khỏi cơn thương khó. Cuối cùng: Inrasara đã cất công sưu tầm, rồi nghiên cứu tỉ mỉ văn học Chăm cổ.

Về văn học Chăm:

 Inrasara có công sưu tầm - nghiên cứu và dịch văn học Chăm. Sara chịu khó đi, chịu khó tìm tòi, sao chép, và hệ thống lại Trường ca, tục ngữ, thành ngữ, câu đố Chăm… Anh nói để có những tư liệu cực kì quí hiếm, để có được nó, anh đã phải đánh đổi cả tuổi thanh xuân của mình. Đối với sử thi, Sara đã vận dụng thao tác so sánh để chỉ ra sự gần gũi cùng điểm khác biệt giữa sử thi Chăm và sử thi các dân tộc thiểu số
khác. Sara rất nghiêm túc khi truy tìm nguồn gốc sử thi, chính anh đã có những lí giải hợp lí về một số thuật ngữ thuộc vùng sử thi này. Đối với truyện cổ, Sara đem lại sự tin cậy về tư liệu cho giới chuyên môn.  Đối với lục bát Chăm, Inrasara đã gợi ra không ít điểm lí thú, mà người đến sau nếu đam mê có thể dựa vào đó để viết những công trình nghiên cứu sâu sắc hơn thế.

Ngoài công việc sưu tầm, nghiên cứu, Inrasara còn tuyên truyền, quảng bá văn học Chăm, văn hoá Chăm trên một diện rộng. Dẫu có công lớn đến vậy, song việc sưu tầm, nghiên cứu… của Inrasara lúc đầu còn nặng quá khứ. Mãi về sau, trong bối cảnh hội nhập, anh mới quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề thời sự văn học Chăm. Inrasara đã “gợi mở và gợi hứng sáng tạo” cho các thế hệ Chăm trẻ.

Nếu chúng ta đồng thuận với nhận định: trước Inrasara giới nghiên cứu lẫn độc giả phổ thông chưa hề nhận ra một nền văn học Chăm thì theo tôi nên phân định rõ hơn một chút nữa, rằng: công làm sáng giá văn học Chăm thuộc về chủ thể sáng tạo, còn công làm sáng giá nền văn học ấy, cho đến thời điểm này - cần phải ghi nhận cho Inrasara.

Về văn hoá Chăm:

Inrasara ca ngợi truyền thống hiếu học của dân tộc Chăm. Anh chú ý không chỉ tới kẻ có bằng cấp mà còn cả người không có bằng cấp gì. Đúng ra, anh dành sự quan tâm nhiều hơn đến những con người tự đào tạo. Anh phê phán những kẻ được đào tạo bài bản mà không chịu tìm học thêm,anh rất ghét những kẻ an tâm ăn mòn mớ kiến thức lạc hậu.

Inrasara chỉ ra có hai loại văn hoá: văn hoá sách vở, tức thứ văn hoá tĩnh và văn hoá nhân dân, tức loại văn hoá động. Loại văn hoá thứ nhất dẫu cần thiết, nhưng không sinh hoá, chỉ có loại văn hoá thứ hai mới được sinh thành liên tục trong cộng đồng và cho cộng đồng.

Inrasara nêu bật vấn đề bảo tồn văn hoá dân tộc. Trong nhiều bài viết của mình, anh khẳng định để bảo tồn văn hoá dân tộc “cần có tấm lòng và phương pháp làm việc đúng đắn”. Mặc dù Inrasara không nói rõ ràng, nhưng tôi đọc thấy trong trang viết của anh một quan niệm khá thú vị rằng: muốn bảo tồn văn hoá thành công, mọi dân tộc cần phải có “khả năng tự vệ”. Nếu không có sự tự vệ này, bất kì nền văn hoá nào cũng tất yếu bị suy thoái rồi dần dần bị diệt vong. Ngược lại, nếu có khả năng tự vệ, dân tộc ấy dù có hiện đại hoá để hòa nhập đi nữa cũng sẽ vẫn giữ được bản sắc của dân tộc mình.

Mặc dù Inrasara luôn nói tới “Chăm tính”, song chưa bao giờ anh tự biến mình thành kẻ giữ kho cho cha ông. Tôi thấy, bên cạnh việc bảo tồn, bảo lưu vốn cổ, Inrasara đã thường xuyên nhắc nhở đến công việc tiếp thu, với anh tiếp thu để sáng tạo ra cái mới.

Inrasara bám sát đời sống văn hóa Chăm đương đại. Có thể nói quang phổ kiến văn của anh tương đối rộng. Tôi thấy, anh có thể kể vanh vách những thành tựu về mỹ thuật của Chăm. Lại thấy anh hào hứng nói về hoạt động của ca - múa - nhạc. Khi nói về kiến trúc, anh cũng tỏ ra mình rất thức thời. Bàn về lễ hội dân gian Chăm, hoặc thổ cẩm Chăm, những ý kiến của Inrasara đượm vẻ trẻ trung và hiện đại. Còn nhận định về văn chương Chăm thì khỏi phải nhắc lại.

Tựu trung, Inrasara đã phác dựng được khuôn mặt văn hoá Chăm từ truyền thống đến hiện đại.

Về xã hội Chăm:

Từ việc điểm lại nhiều cuộc thiên di lớn của người Chăm trong lịch sử nước nhà, Inrasara đã dành nhiều trang viết về các thế hệ Chăm Panduranga.

Đọc Inrasara, tôi thấy anh xông xáo bàn về các vùng mờ của xã hội Chăm và văn hóa Chăm cổ. Các trang viết về chế độ mẫu hệ Chăm, hoặc về họ Chăm của anh vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có tính chất lí luận.

 Sara đã trực diện với những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc. Chẳng hạn anh thẳng thắn nhìn nhận vấn đề thân phận dân tộc, nghiêm túc nghĩ về thế đứng của con người Chăm hôm nay. Anh thừa nhận: trong xu hướng toàn cầu hoá, khi Việt Nam gia nhập WTO, cơ cấu xã hội nông thôn Chăm bị phá vỡ, đất ruộng ngày càng bị thu hẹp, số hộ không còn đất canh tác tăng theo cấp số nhân,…

Từ thực tế trên, Inrasara nêu lên nhiều vấn đề thiết thực đối với một dân tộc và nói nhiều tới sứ mệnh của trí thức. Với anh, trí thức trước tiên phải biết tỏ thái độ trước thời cuộc, rồi phải thường xuyên tham gia các hoạt động trí tuệ có tính chất cộng đồng; trí thức không chỉ biết tự đặt lên vai mình trách nhiệm xã hội, mà còn nên tự nguyện gánh vác lấy nó suốt đời, thậm chí sẵn sàng sống chết cho nó. Inrasara luôn xét trí thức trong quan hệ với cộng đồng, với dân tộc. Anh bàn sâu tới bản lĩnh trí thức, anh xét tâm thế cùng tri kiến đích thực của trí thức ở từng hoàn cảnh cụ thể. Tôi xem quan điểm vừa nêu của Inrasara rất đúng đắn và đặc biệt cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Inrasara lo cho sinh phận Chăm với một lòng chân thành rất mực. Anh nói về xã hội Chăm, con người Chăm từ một tinh thần mở, một thái độ mở. Anh bảo “chúng ta dù muốn hay không cũng phải lên đường cùng nhân loại”.

Trước Inrasara hiếm có người nào sòng phẳng nói đến cùng các khuyết điểm của mình, lại càng ít người chế ngự được các thói tật của bản thân. Chỉ đến thế hệ Inrasara, mẫu người Inrasara thì sự tự tri mới trở nên có ý nghĩa to lớn đối với chính chủ thể văn hoá Chăm, xã hội Chăm. Tôi khâm phục cái ý chí tự mổ xẻ các khuyết tật Chăm ở anh.

Tôi tin người ta còn nói nhiều đến Inrasara hơn nữa.

T.T.K
(247/09-09)

----------------
(1) Đọc lại Inrasara. Văn hoá - xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại. Nxb Văn học, 2008





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.

  • KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?

  • MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.

  • INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay

  • XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.

  • Linda Lê, nhà văn nữ, mẹ Pháp cha Việt, sinh năm 1963 tại Đà Lạt, hiện đang sống tại Paris, viết văn, viết báo bằng tiếng Pháp. Một số tác phẩm của nhà văn đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam như là: Vu khống (Calomnies), Lại chơi với lửa (Autres jeux avec le feu). Chị đã có buổi nói chuyện tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế vào ngày 15.10.2010 vừa rồi. Sau khi trao đổi về bản dịch, chị đã đồng ý cho phép đăng nguyên văn bài nói chuyện này ở Tạp chí Sông Hương theo như gợi ý của dịch giả Lê Đức Quang.

  • LÊ TIẾN DŨNGKhi nói đến thơ một vùng đất, thường người ta vẫn chú ý nhiều đến những vấn đề như tác phẩm, thể loại, đội ngũ… nghĩa là tất cả những gì tạo nên phong trào thơ của một vùng.

  • LẠI NGUYÊN ÂN(Trích đăng một phần tiểu luận)

  • KHẾ IÊMGửi các nhà thơ Đỗ Quyên, Inrasara và Lê Vũ

  • TRẦN HUYỀN SÂMTrong một nghiệp bút, hình như có tính quyết định bởi những cú sốc. Hoặc là cú sốc ái tình, hoặc là cú sốc chính trị, hoặc là sự thăng hoa của một miền ký ức nào đó ở tuổi hoa niên. Tiểu thuyết gia, chính trị gia Peru: Mario Vargas Llosa - người vừa được vinh danh giải Nobel văn học, dường như đã “chịu” cả ba cú sốc nói trên.

  • LTS: Thơ Haiku Nhật Bản thế kỷ XVII không dùng lối nói bóng gió, không tìm kiếm những nét tương đồng giữa “thế giới bên trong” của con người và hiện thực “bên ngoài” để tạo ra cầu nối giữa con người với thế giới, con người với con người. Haiku dùng những biểu tượng hàm súc ứ đầy thông tin và cảm giác để khắc họa con người trong nhất thể với thế giới. Đường thi cũng rất ít xuất hiện trường hợp dùng lối nói ẩn dụ, mà bộc lộ trực tiếp ý tưởng và ưa thích liên tưởng mà không cần viện tới cái tương đồng.

  • LGT: 1. Dịch giả, nhà phê bình Trần Thiện Đạo( sinh 1933) định cư ở Pháp từ thập niên 50. Sống hơn nửa thế kỷ ở Paris, Trần Thiện Đạo đã thâm ngấm sâu sắc ngôn ngữ và văn minh Pháp. Tuy nhiên, cảm thức cội nguồn vẫn luôn tiềm tàng trong tâm thức của một người trí thức sống lưu vong. Miệt mài, đam mê đến khổ hạnh, ông đã tạo lập một vị trí đặc biệt trong dòng đối lưu văn chương Pháp -Việt.

  • NGUYỄN THANH TÂM1. Thơ vốn dĩ là sản phẩm của đời sống tinh thần, là sự biểu hiện một cách tinh tế những diễn biến nội tâm của chủ thể sáng tạo. Ngôn từ vẫn luôn là chất liệu với nội lực biểu hiện vô song của nó. Các nhà thơ dù ở thời đại nào, trong môi trường văn hóa, lãnh thổ nào cũng không thể thoát ra khỏi sự ràng buộc tự nhiên của cái biểu đạt ấy để hướng tới cái được biểu đạt ẩn sâu sau những “lựa chọn” và “kết hợp” có giá trị mĩ học.

  • MAI VĂN HOANKỷ niệm 70 năm ngày mất Hàn Mặc Tử (11/11/1940 - 11/11/2010)Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, mất năm 1940. Quê Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Tổ tiên họ Phạm, ông cố Phạm Nhương, ông nội Phạm Bồi, vì liên can quốc sự trốn vào Thừa Thiên đổi ra họ Nguyễn. Cha là Nguyễn Văn Toản, mẹ là Nguyễn Thị Duy.

  • PHONG LÊHôm nay theo tôi quan niệm là một thời gian khá dài, nếu tính từ khởi động của công cuộc Đổi mới với Đại hội Đảng lần thứ VI - 1986.

  • THÁI DOÃN HIỂUVì sao Nguyễn Du viết Truyện Kiều? Mục đích viết Kiều để làm gì?... là những câu hỏi bức bối trong suốt thời gian tôi còn làm ông giáo đứng trên bục giảng. Tôi đã viết một chuyên luận dài 200 trang để trả lời câu tự vấn trên. Dưới đây là bản tóm tắt ghi bằng thơ để bạn đọc dễ tiếp thu và ghi nhớ.

  • L.T.S: Tối 27-3-1984, tại Huế, giáo sư Xi-đô-rốp, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô, hiệu phó học viện Gooc-ki và là nhà lý luận Văn học nổi tiếng của Liên Xô, đã đến tham dự cuộc tọa đàm về các vấn đề văn học với các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ở Bình Trị Thiên. Sau đây là những ý kiến của giáo sư về các vấn đề đặt ra trong cuộc tọa đàm, qua lời phiên dịch của nhà thơ Bằng Việt, do Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi lại.

  • MAI VĂN HOANTheo thần thoại Hy Lạp, vị thần đầu tiên xuất hiện trên thế gian là thần Ái tình. Thần Ái tình là một đứa bé có cánh với cây cung bên người, ngọn đuốc cầm tay mang tình yêu đến với những trái tim. Tình yêu - nguồn đề tài không bao giờ cạn của văn học nói chung và thơ ca nói riêng.

  • LƯƠNG ANNhớ có một bài thơ “nói láo” nào đó, khi kết thúc đã nói đến một điều không thể được là làm cho “mấy nàng công chúa phải say mê”. Bài thơ nói đúng với những chàng trai bất tài. Còn trường hợp có tài thì sự việc sẽ khác. Một câu chuyện tình trong đời của nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh đã chứng minh điều đó.