Huỳnh Thúc Kháng - trước ngã ba thời đại

08:37 09/11/2017

PHẠM PHÚ PHONG

Có những thời đại lịch sử nóng bỏng riết róng, đặt những con người có tầm vóc, có lương tri và nhân cách luôn đứng trước những ngã ba đường, buộc phải có sự chọn lựa, không phải sự nhận đường một cách mơ hồ, thụ động mà là sự chọn lựa quyết liệt mang tính tất yếu và ý nghĩa sống còn của tiến trình lịch sử và số phận của những con người sống có mục đích lý tưởng, có độ dư về phẩm chất làm người.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng - Ảnh: wiki

Đó chính là những ngã ba đường mà Đặng Dung đã đứng và đã có cuộc chọn lựa để danh thơm muôn thuở. Đó cũng chính ở ngã ba đường mà Nguyễn Trãi đã tìm lối rẽ đúng để trở thành danh nhân văn hóa, một nhân cách tiêu biểu cho cả dân tộc. Với Huỳnh Thúc Kháng, trước sau, lớn nhỏ tùy vào từng thời điểm khác nhau, nhưng ít nhất có đến bốn lần lịch sử đặt ông đứng trước những ngã ba của thời đại, buộc ông phải chọn lựa trước những thử thách như một chất kiểm màu làm nổi rõ những gam màu nóng của một danh sĩ đất Quảng.

Sự hình thành và phát triển của văn chương xứ Quảng gắn liền với các trào lưu yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cùng với sự hình thành một danh hiệu mà không có bất kỳ vùng đất nào có được, đó là danh sĩ đất Quảng. Tôi ngờ rằng, trước đó, danh hiệu kẻ sĩ Bắc Hà đã hình thành trong một quá trình lịch sử lâu đời, nhằm khẳng định những nhân cách, hoặc cao hơn, là những văn cách từ thuở Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi và được khẳng định bởi những sĩ phu ra giúp Nguyễn Huệ Tây Sơn làm nên cơ nghiệp nhà Tây Sơn. Nhưng với vùng đất “phên giậu” Quảng Nam danh hiệu này không chỉ dừng lại ở “kẻ sĩ” (người có học), mà còn là “danh sĩ” (người học hành có tiếng tăm), nó hình thành cùng với bản sắc văn hóa của vùng đất, nó biểu hiện một thái độ dấn thân của người trí thức trước thời cuộc: người có văn hóa phải là người đứng ra nhận lãnh trọng trách trước thời đại. Khi đất nước có xâm lược, người có văn hóa là người yêu nước và bản lĩnh ấy được biểu hiện cao nhất ở hành động chống ngoại xâm. Vì vậy, trào lưu yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã tạo nên tư cách của những danh sĩ, đầu tiên là những người có học, đỗ đạt ra làm quan giúp nước, như Phạm Phú Thứ, Hoàng Diệu, Ông Ích Khiêm (gần giống với kẻ sĩ Bắc Hà trước đó), nhưng khi triều đình suy yếu, bạc nhược thì tự mình đứng ra nhận lãnh trách nhiệm cứu nước như Nguyễn Duy Hiệu, Nguyễn Thành, Phan Thành Tài, Phan Châu Trinh, Thái Phiên, Trần Cao Vân, Trần Quý Cáp... Hầu hết họ đều là những con người sinh ra ở ngã ba đường, đòi hỏi phải có sự chọn lựa, nên phải tìm đến với văn chương, làm văn chương là chọn lựa một cách thế thể hiện lòng yêu nước, đáp lại lời kêu gọi của lịch sử và Huỳnh Thúc Kháng cũng là một trong những người ưu tú nhất trong số đó.

Cuộc chọn lựa thứ nhất có ý nghĩa quyết định cho cuộc đời và sự nghiệp của Huỳnh Thúc Kháng thể hiện tâm huyết toàn vẹn của một thanh niên yêu nước trưởng thành trong thời đại bão giông của lịch sử dân tộc. Buổi chiều, ngồi trên đỉnh núi Thiên Ấn, nghe tiếng chuông chùa thanh vắng mà buồn đến nao lòng. Tôi đưa tầm mắt bao quát thành phố Quảng Ngãi xa xa với người và xe cộ tấp nập, rộn ràng, những ngôi nhà cao tầng nhấp nhô như bức tranh đời sống liên hoàn vô tận, nhịp điệu gấp gáp của đời sống thời kinh tế thị trường. Còn ở đây trên bầu trời xanh mùa hạ, miên man những đám mây trôi sà thấp xuống, tưởng như chạm đến, loang thấm vào màu xanh của dòng nước sông Trà, minh chứng cho câu “Thiên Ấn niêm Trà”..., tôi bỗng hình dung ra vóc dáng nhân cách của người nằm dưới mộ, như mảnh vỡ của một thiên thạch xứ Quảng đã rơi xuống, nằm lại nơi đây, bầu bạn với đất trời, mây gió, núi sông. Đó chính là nhà chí sĩ, là học giả, nhà thơ, nhà báo và là một trong những danh sĩ đất Quảng Huỳnh Thúc Kháng.

Trước khi Huỳnh Thúc Kháng về “cư ngụ” nơi đây một năm, cũng chính tiếng chuông chùa này đã gội rửa bao muộn phiền, bệnh tật, tạo sự thanh thản những ngày tháng cuối đời cho thi sĩ Bích Khê, con người tài hoa đoản mệnh đã dừng lại ở cõi đời vào tuổi ba mươi. Trước khi qua đời, Huỳnh Thúc Kháng đã để lại di chúc muốn được về nằm lại nơi đây. Đó là sự lựa chọn không mấy dễ dàng vào thời điểm ấy (1947) khi mà cuộc kháng chiến đang diễn ra, phía Bắc cầu An Tân và phía Nam đèo Cù Mông là vùng địch chiếm đóng, vùng tự do Liên khu Năm bị cát cứ trong hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định... Nhưng đây không phải là cuộc lựa chọn lần đầu, thể hiện bản lĩnh của một trí thức thời đại, có thể nói, suốt đời ông đều là những cuộc chọn lựa mang đậm đặc cái chất người của con người xứ sở quê ông, không xu thời, lừng khừng cầu vinh, mà quyết liệt thực hiện mục tiêu kiên định. Sinh năm 1876, ở Tiên Giang thượng, Tiên Phước, nhà nghèo, học giỏi, thi đỗ Giải nguyên (1900) rồi đỗ Hoàng giáp (1904) nhưng lại từ chối không ra làm quan, mà chọn con đường cách mạng cứu nước, giao du với các chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và trở thành một trong những người đứng đầu của phong trào Duy Tân, lãnh đạo cuộc xuống đường chống thuế và lãnh án 13 năm tù ở Côn Đảo (1908 - 1921). Sau khi ra tù, thực dân Pháp thành lập Viện dân biểu Trung kỳ, ông lại chọn con đường đấu tranh nghị trường, đứng ra làm Viện trưởng, liên tục trong hai năm (1926 - 1928) ông dùng diễn đàn này đấu tranh đòi cải cách dân chủ, nhưng không mấy hiệu quả, bèn đứng ra thành lập báo Tiếng dân để tiếp tục tranh đấu, mặc dù bản thân chưa đọc thông báo viết thạo chữ quốc ngữ. Sau Pháp là Nhật cũng đều mua chuộc, dụ dỗ nhưng đều bị ông từ chối, vì ông chọn con đường về với dân, hợp tác với chính quyền nhân dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, ông nhận chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội Vụ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945) và khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán (1946), mặc cho thù trong giặc ngoài, trong không khí dầu sôi lửa bỏng, ông vẫn đứng ra làm Quyền Chủ tịch Nước, ông còn là người sáng lập và làm Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân... Năm đó, ông vào tuổi “thất thập cổ lai hy” và đang được trọng vọng như vậy, ông có quyền nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già, nhưng ông lại chọn con đường dấn thân về quê hương kháng chiến, từ chối chức tước, bổng lộc, xin làm đặc phái viên của Chính phủ về lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Liên khu Năm và qua đời vì già yếu, bệnh tật tại thị trấn Chợ Chùa ngày 21/4/1947.

Ngẫm lại, cuộc đời Huỳnh Thúc Kháng, quả là lúc nào lịch sử cũng đặt ông đứng ở ngã ba đường và yêu cầu bức bách phải có một cuộc chọn lựa quyết liệt và sự chọn lựa của ông bao giờ cũng đúng, có thể nói, cả cuộc đời ông sống theo một quyết định luận, một sự lựa chọn lớn mang tầm thời đại, là luôn đứng về nhân dân, dân tộc và đất nước. Vì vậy, thơ văn của ông cũng chủ yếu “nói về khí tiết của người đại trượng phu, không khuất phục uy vũ, không màng giàu sang, không sờn lòng trước gian khổ (....) những bài báo và thơ văn của Huỳnh Thúc Kháng viết trên Tiếng dân cho thấy ông là người yêu nước nhiệt thành, là bạn thắm thiết của dân nghèo - đặc biệt là của nông dân - sống cực nhọc dưới chế độ thực dân nửa phong kiến”(1). Vậy là, tất cả những cuộc chọn lựa trên đều thể hiện một cách nhất quán cái chất người trong con người của một “danh sĩ đất Quảng”. Điều đó còn thể hiện rõ trong thơ văn ông có một khẩu khí mạnh mẽ, cứng cỏi như chính con người của ông.

Cuộc chọn lựa cuối cùng của Huỳnh Thúc Kháng, cũng là nguyện vọng cuối cùng của ông, là được yên nghỉ tại đây, một ngôi mộ nhỏ, trên một khoảng đất khoảng hơn năm mươi mét vuông, bình thường, giản dị như chính cuộc đời vì dân vì nước của ông, nằm trên đỉnh núi thoáng mát, được mơn man bởi mây chiều và gió thổi từ sông Trà, trong tiếng kinh kệ từ ngôi chùa cổ. Người ta nói rằng, sinh thời Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có nguyện vọng này? Nếu quả đúng như thế, thì đấy là sự gặp nhau của những người tri âm. Tư tưởng mỹ học Phật giáo được Đức Thích Ca Mâu Ni chứng nghiệm qua nguyên lý: “Tôi thanh tịnh, tôi thấy mọi vật đều thanh tịnh” được siêu nghiệm ở chính nơi đây. Hơn sáu mươi năm qua, gió vẫn thổi, mây vẫn trôi, dòng sông vẫn trong xanh xuôi về biển cả, và nhân cách của một sĩ phu, một trí thức của thời đại, vẫn sừng sững với núi Ấn, sông Trà và non sông đất nước. Có lẽ, với ông, chết không phải là hết, là kết thúc, mà là kéo dài sự sống trong tâm tưởng mọi người, như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong sự tiếc thương vô hạn, trước sự ra đi của ông, rằng: “Cụ Huỳnh tạ thế, nhưng cái chí vì nước của cụ vẫn luôn sống mãi trong tâm hồn của gần chục triệu đồng bào ta”.(2)

Tôi cúi lạy và giã biệt ông khi trời chiều đã tắt nắng, lấp lánh trên khoảng không những ánh sao sớm đang tỏ dần. Có vì sao nào chọn điểm rơi xuống nơi đây?

P.P.P  
(TCSH344/10-2017)

----------------
1. Lê Chí Dũng, Tự điển văn học, bộ mới, Nxb. Thế giới, H.2004, tr.674.
2. Dẫn theo Nguyễn Quang Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học và xã hội H.1991, tr.261.






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.