Hương cổ tích

08:27 24/03/2023

PHẠM XUÂN PHỤNG

Xưa, về phương Nam có một chàng trai, mặt mày thanh tú, tính nết hồn hậu, tuổi trạc đôi mươi. Chưa có người gá nghĩa trăm năm nên cây xanh còn lẻ bóng. Tên chàng là La Hồng Phượng.

Minh họa: PHAN CHI

Không ai nơi cái làng sơn cước chàng ở hiểu chàng xuất xứ từ đâu. Chỉ biết chàng là người võ nghệ cao cường, đã mấy phen cứu làng đánh cọp. Những con cọp bị chàng đánh cũng chẳng chết, cũng chẳng bị thương. Chúng chỉ bị chàng đánh đau, sợ mà bỏ chạy, không bao giờ dám quay lại quấy nhiễu dân làng. Cũng không ai biết chàng học vấn ra sao. Chỉ thấy đêm đêm khi nàng trăng toả bóng, chàng lại ngồi dưới gốc cây tùng đọc sách. Gió rì rào bên tai và hoa rừng đưa hương thơm ngát như ru hồn chàng vào cõi mộng.

Một hôm giữa đêm khuya chàng tỉnh dậy, khăn gói lên đường. Dân làng không biết chàng đi đâu, lúc đầu nhắc với niềm luyến tiếc, lâu rồi cũng lãng quên. Cuộc đời lầm lũi của dân miền sơn cước có mấy khi rảnh để nhắc nhở một con người tuy tốt bụng, tài hoa, nhưng không mấy ai hiểu. Có kẻ kém tài, từ lâu đem lòng đố kị, nay thấy vậy phao tin: "Chàng trai có khi là yêu quái, giả dạng người làm việc thiện để mưu việc ác chi đây”. Lúc đầu, có người từng chịu ơn chàng, tức giận phản bác cái tin đồn vớ vẩn ấy. Riết rồi, chẳng ai nhắc đến chàng, cả điều tốt lẫn tiếng xấu. Chàng như hòn ngọc lăn xuống hồ sâu, chỉ loáng ánh hồng quang như ráng chiều vụt tắt. Mặt hồ thoáng dợn sóng buồn tiễn biệt rồi trở lại yên bình. Gió vẫn rì rào với ngàn cây và hoa rừng vẫn đưa hương ngan ngát. Nhưng bóng chàng trai nay đã xa rồi!

* * *

La Hồng Phượng dựng một căn lều nhỏ bên gốc cây tùng, nơi những đêm trăng xưa chàng thường ngồi đọc sách. Dân làng vui vẻ đón chàng trở về sau mấy năm xa cách. Giờ đây chàng xấp xỉ ba mươi, khuôn mặt nhuộm màu sương gió. Nhưng ánh mắt rực sáng long lanh và nụ cười - lạ thay - như hoa mơ chưa nở trọn. Chàng không còn mặc bộ võ phục đen tuyền như xưa. Bây giờ chàng thường mặc áo dài, đầu vấn khăn nhiễu xanh, chân đi giày cỏ. Trên bàn, một lọ mực, một cây bút lông. Bên gối một cuốn sách, một cánh hoa nhỏ. Chàng làm việc không kể đêm ngày. Sáng ở nhà khám bệnh, kê đơn. Chiều lên núi hái hoa, tìm thuốc. Chàng chữa bệnh không kể sang hèn, ai tặng gì không phân nhiều ít, chàng đều cảm ơn. Chàng kể với dân làng rằng: "Cơ duyên đến, gặp ân sư truyền thụ ĐẠO CỨU NGƯỜI. Ân sư trước lúc chia tay, có dặn: "Thuận thiên dã tồn, Nghịch địa dã vong"." Bệnh thông thường, chàng chỉ bốc một thang là khỏi. Bệnh nặng, quỷ bắt hồn đã đứng ở đầu giường, thấy chàng đến cũng cúp đuôi bỏ trốn. Người được chàng cải tử hoàn sinh kể đến hàng nghìn. Người bệnh tứ phương ùn ùn kéo đến. Riêng đức vua mãi lo đánh giặc phương xa, công chúa bận ngồi trang điểm nên không đến với chàng. Mỗi con bệnh qua khỏi cơn đau như tiếp thêm cho chàng sức mạnh. Danh tiếng Thần y vượt mọi núi sông. Tên thầy mo trong khắp xứ căm giận vì bị mất nghề lừa bịp, tìm đủ cách hãm hại chàng. Nhưng đã có dân làng ngày đêm bao bọc, nên lũ ác tâm chẳng thể làm gì. Chúng hằm hè chờ đợi.

Cho đến một hôm...

Thần y cứu người thì được, cứu mình chẳng xong. Bị quỷ sứ giữa ban trưa, quăng thòng lọng kéo hồn về chín suối. Đối diện với Diêm Vương, xưa nay có Tề Thiên là chẳng ngán. La Hồng Phượng là người trần, thấy địa ngục đã ba hồn mất bốn, nhìn vạc dầu đã bảy vía thiếu hai. Trên ngai cao, thập điện minh vương vểnh râu ngất nghểu. Dưới sân chầu, Thần y La Hồng Phượng xanh mặt quỳ run. Diêm Vương đập bàn quát:

- Tên La Hồng Phượng kia! Mi có biết tội hay chăng?

- Tâu Diêm Chúa! Cả đời con từ khi biết điều phải trái, chỉ nhất tâm hành thiện cứu người; chẳng hề gây tội ác, cúi xin Diêm chúa mở lượng hải hà cứu xét cho con nhờ!

- A! Tội đã rành rành còn bẻm mép. Phán quan đâu?

Thôi Phán quan nghe truyền lệnh vội ôm đến một tập sách dày chi chít chữ, rồi hắng giọng nói to:

- La Hồng Phượng nghe đây! Từ khi mi hành nghề bốc thuốc đến nay, mi đã cứu sống hàng nghìn người. Đây là danh sách. (Nói đoạn, đọc vanh vách tên người...). Có đúng không?

- Dạ đúng! La Hồng Phượng mừng khấp khởi, trả lời.

- Sinh tử là luật trời - Thôi Phán quan nói - Phàm làm muôn vật ở trần gian, đã có sinh là có diệt. Sinh sinh diệt diệt mãi chẳng cùng. Cớ sao mi dám làm trái luật Trời, cứu cho người hết số? Để đến nỗi địa ngục vắng teo, Diêm vương thiếu lính? Đó là tội của ngươi, biết chưa?

- Dạ, dạ. Thưa Ngài! Quả tình con chẳng biết cứu sống người lại mắc tội với Diêm Vương, con cứ tưởng thế là ẩn ác dương thiện. Con tình thật tỏ bày. Cúi xin ngài tâu với Diêm Vương tha cho con tội chết.

Thôi Phán quan động lòng thương, quỳ tâu:

- Tâu Diêm Vương! Tên này tuy làm trái luật Trời nhưng căn bản vốn thiện. Lỡ làm một đận, xin Diêm Vương tha cho y về trần gian lập công chuộc tội.

Diêm Vương nghe tâu, bớt giận, phán bảo:

- Lần này ta tha cho. Nhớ vô trần gian lập công chuộc tội.

La Hồng Phượng mừng quá vái lia lịa rồi... tỉnh giấc. Mồ hôi ra ướt áo. Nhớ cảnh địa ngục âm u, bất giác rùng mình sởn ốc. Ngặt lời thầy dạy, biết tính sao đây?

* * *

Từ đó, mỗi khi Thần y đi chữa bệnh, lại có quỷ bắt hồn nương bóng đi theo. Người chết ngày một nhiều, chẳng mấy chốc gần đủ số. La Hồng Phượng vừa mừng thoát nợ Diêm Vương, lại lo nỗi quên lời thầy dạy. Cứ bâng khuâng hai ngả dữ lành, ngày đêm ray rứt. Hồn những kẻ chết oan đâu có biết quỷ vương núp bóng người hiện ra để ra tay độc, cứ nhất tâm oán hận Thần y đã giết mình. Rủ nhau lên thiên đình kiện cáo. Ngọc Hoàng sai Thiên Lôi về trần bắt Thần y lên thiên đình xử tội. Các thiên thần nghị án, khép vào tội chết chẳng tha. Thiên lôi tuân lệnh đem Thần y ra thiên môn toan hạ búa. May đâu gặp Thái Bạch Kim tinh vừa tới, thấy vậy bèn hỏi. Thiên Lôi cứ y sự mà tỏ bày. Thái Bạch Kim tinh động lòng bèn bảo:

- Hãy khoan động thủ. Để ta vào tâu đã.

Nói đoạn vào tâu với Ngọc Hoàng:

- Muôn tâu Ngọc Hoàng Thượng đế! Thần đã nghe rõ đầu đuôi tội trạng này. Xét kỹ thì, tội đành đáng xử, tình thật nên thương. Không cứu người là trái lời thầy dạy, cứu sống người mắc tội với Diêm Vương. Để người chết phạm tội cùng Thượng đế.

Ngọc Hoàng nghe tâu, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi phán hỏi:

- Theo khanh, bây giờ nên xử thế nào?

- Tâu! Theo thần, bây giờ nên cho nó sống cuộc đời lộn ngược là xong.

- Sống ngược đời như vậy nghĩa làm sao? Ngọc Hoàng hỏi lại.

- Tâu! Sống ngược một đời, đó là bí quyết để tìm ra lẽ sống muôn đời.

Ngọc Hoàng chuẩn tấu.

* * *

Thế là trên trần gian, ở nơi làng cũ, có một kẻ xưa vốn là Thần Y, xưa nữa là chàng trai thông minh dĩnh ngộ, văn võ kiêm toàn; nay sống đời lộn ngược. Ban ngày nói lảm nhảm, ăn bậy bạ, chân tay quờ quạng như điên. Đêm về khi mọi người đã say, chàng lại tỉnh. Bao ý nghĩ sáng suốt tuyệt vời cứ hiện rõ trong đầu nhưng không biết tỏ cùng ai. Đau khổ tận cùng mà không sao giải được. Dân làng lúc đầu còn thương, năng lui tới vỗ về, cho đồng quà tấm bánh. Dần dà biết rõ Thần Y xưa, nay chỉ là thằng dở điên dở tỉnh, không được tích sự gì, lần lần tất cả xa lánh. Bọn thầy mo trong làng và các xứ được dịp trả thù, tha hồ bêu riếu Thần Y và kích động dân làng trừ diệt. Những kẻ chịu ơn chàng lúc đầu còn bảo vệ, mãi rồi đâm chán, hùa theo kẻ ác chửi rủa đêm ngày. Rốt cùng, vác dao gậy đuổi đánh Thần Y. Chàng hết chỗ dung thân ở cõi người, đành tìm non sâu ẩn nấp! Từ đó, ĐẠO CỨU NGƯỜl chẳng mấy ai dám học, tàn lụi dần. Nơi rừng sâu, giữa ban ngày vắng bóng người. Thần Y lại tỉnh. Chàng đem hết tài nghệ và tình thương chữa chạy cho chim chóc và muông thú. Chúng lại đêm ngày nuôi dưỡng chàng, gần gũi âu yếm sưởi ấm lòng người đang tan nát.

Một đêm, biết mình sắp lìa đời, La Hồng Phượng quỳ xuống khấn Ân sư: "lạy Ân sư nghìn lạy! Lời Ân sư con chẳng dám quên. Chẳng may, con không sao làm tròn được. Thuận Thiên thì nghịch Địa. Thuận Địa thì nghịch Thiên. Cả hai đàng đều mắc tội. Con đành chịu kiếp lưu đày, sống giữa rừng sâu cùng cỏ cây, muông thú. Lòng con thanh thản, không oán hận gì. Chỉ tiếc nỗi không sao thi hành được ĐẠO CỨU NGƯỜI như Ân sư hằng mong mỏi. Con thật đắc tội với Người!" Đoạn, chàng chắp tay vái tạ Đất Trời: "Hoàng Thiên Hậu Thổ soi xét lòng con. Con những mong ẩn ác dương thiện cho hợp với Đạo Trời. Chẳng may tài thô đức bạc mà đành mang tội với Đất Trời, chịu án lưu đày biệt xứ. Con quyết không một lời oán hận, không một ý khinh nhờn. Cúi xin Hoàng Thiên Hậu Thổ chứng giám cho lòng thành của con, cho con sau khi chết được hóa thân thành một vật có ích cho Đời là thỏa nguyện". Khấn đoạn, La Hồng Phượng nhắm mắt lìa đời. Gió ngừng thổi. Hoa rừng thôi đua hương. Nhựa trong cây ngừng chảy. Chim chóc, muông thú đau buồn quần tụ bên di hài Thần Y. Cả vạn vật như bao trùm một nỗi buồn chìm đắm. Nhưng niềm đau vĩnh biệt bên trong cuồn cuộn dâng trào như nước ngầm trong đất chực trào sôi khi Thần Y vừa nhắm mắt. Lòng thành của chàng động đến Ngọc Hoàng. Ngài cho anh linh của chàng hóa thành một loài cây lạ. Cây sống lẩn khuất ở non cao hiểm trở, từ khi còn non đến lúc già chẳng có chi khác lạ nếu không bị làm đau. Vết thương của con người rỉ máu, vết thương của cây thì rỉ nhựa. Nhựa đau lắng chìm, lắng chìm rồi tụ lại ở góc thành khối. Để càng lâu, KHỐI ĐAU càng nặng, càng sắt lại, càng tinh khiết hơn. Gặp lúc cháy rừng, cây bị lửa thiêu. Lạ thay, khi ngọn lửa bạo tàn chạm đến, KHỐI ĐAU bỗng tỏa hương thơm ngát núi rừng. Và ngọn lửa bạo tàn đột nhiên tắt ngấm. Chim chóc và muông thú thoát nạn, nhảy nhót reo mừng. Chợt nghe mùi hương thơm, chúng bỗng dưng kéo về quần tụ lại quanh KHỐI ĐAU đang tỏa hương, thân thiết như chung một loài bên dư hương người cứu nạn; như thể Thần Y không chết bao giờ.

Về sau có người già biết được, đem KHỐI ĐAU của cây hay nỗi đau đời của Thần Y hóa thân, đốt lên trước bàn thờ tổ tiên. Khói vần vụ phảng phất dáng người và hương thơm kỳ lạ. Bèn đặt tên là TRẦM HƯƠNG ngụ ý là hương thơm chìm lặng. Còn gọi là KỲ NAM. Từ ấy, con người mỗi khi cúng tế đem TRẦM HƯƠNG đốt lên để tưởng nhớ anh linh người đã khuất.

P.X.P
(TCSH53/01&2-1993)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VIỆT HÀCó một ngày rất âu lo đã đến với thằng béo. Bụng bồn chồn tưng tức, giống như đang ngồi giữa một cuộc họp trang trọng bỗng mót tiểu tiện mà không thể đi. Trước đấy hình như duy nhất một lần cái cảm giác bất an này cũng đã đến. Láng máng không thể nhớ.

  • MA VĂN KHÁNGKhi những người U Ní ở vùng biên sau mấy tháng trời đông giá, ngồi trong nhà đánh cuốc, sửa dao, đan lát bước ra khỏi căn nhà đất dày kín như cái kén, đặt chiếc vai cày lên cổ con trâu, đi những đường cày đầu tiên, hoặc rủ nhau đi bán công khắp các nơi trong vùng thượng huyện Bát Xát, thì hoa gạo bắt đầu nở.

  • PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!

  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.

  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.