Huế trong mùa xuân thống nhất

08:52 13/04/2023

LÊ QUANG MINH

Huế là trung tâm chính trị - văn hóa trong thời trung đại với vai trò thủ phủ Đàng Trong, kinh đô Triều Nguyễn, là nơi đánh dấu sự cáo chung của chế độ phong kiến vào năm 1945.

Bộ đội giải phóng tiến vào cổng Ngọ Môn trong ngày giải phóng Huế. Ảnh tư liệu

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Huế là trung tâm chính trị thứ hai ở miền Nam, đồng thời là một trung tâm giáo dục với vai trò của Viện Đại học Huế, Trung tâm Phật giáo miền Nam... Với tinh thần cách mạng quật khởi, quân và dân Thừa Thiên đã từng bước lập nên những chiến công trong đánh Mỹ như phong trào Đồng Khởi năm 1960, phong trào đấu tranh chính trị, tranh đấu Phật giáo năm 1963 và 1966, Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 và đặc biệt là đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng quê hương Thừa Thiên Huế, góp phần quan trọng trong sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Để có được chiến thắng quyết định này, quân và dân Trị Thiên đã chuẩn bị một thời gian khá dài dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính Trị, Quân ủy Trung ương. Mùa thu năm 1974, Thiếu tướng Lê Tự Đồng đã được lệnh ra Hà Nội báo cáo tình hình thực tế chiến trường để có căn cứ triển khai các kế hoạch tác chiến, giải phóng miền Nam. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương đã căn dặn tận tình trong đó nhấn mạnh: “Nhiệm vụ rất nặng nề, vừa giành dân vừa mở rộng thêm địa bàn. Giành dân là vấn đề rất quan trọng trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh; nhưng giữ cho được phong trào, giữ vững địa bàn để phát triển cách mạng lại càng khó khăn, cần phải có nhiều phương án cụ thể”1.

Cuối năm 1974, Khu ủy và Quân khu ủy Trị Thiên đã mở cuộc họp để nghiên cứu, quán triệt. Kế hoạch tác chiến đã nêu rõ quyết tâm phải đạt được trong từng giai đoạn với tinh thần quyết chiến cao độ làm nức lòng bộ chỉ huy “Riêng chiến dịch đầu đã mở một vùng rộng lớn với khoảng 35 vạn dân! Nghe sao mà sung sướng, phấn khởi quá”2. Tiếp đó, ngày 8/2/1975, Bộ Chính trị ra quyết định số 2328-NQ/TW về việc thành lập Đảng ủy Mặt trận Trị - Thiên, thành phần gồm có các cán bộ trong Khu ủy, Quân Khu ủy Trị - Thiên và Đảng ủy Quân đoàn 2, chỉ định Thiếu tướng Lê Tự Đồng, Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy Quân khu ủy làm Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Sự thống nhất về mặt chỉ đạo này đã tạo được đoàn kết trong Ban lãnh đạo Khu ủy, Quân khu ủy cũng như trong toàn quân. Kế hoạch chiến dịch tiến công giải phóng hoàn toàn Quảng Trị, Thừa Thiên Huế được quyết định và thực hiện. Tất cả chỉ chờ ngày nổ súng.

Ngày 10/2/1975, Quân ủy Trung ương phê chuẩn kế hoạch năm 1975 của Quân khu Trị Thiên với nội dung cơ bản là: “Tập trung toàn bộ lực lượng Quân khu và Quân đoàn II, tranh thủ thời cơ thuận lợi của năm 1975, đẩy mạnh tiến công tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch ở Trị Thiên, giành 35 vạn dân ở nông thôn đồng bằng, phát động cao trào đấu tranh chính trị ở thành phố, đánh mạnh vào kho tàng hậu cứ, triệt phá giao thông; tích cực sáng tạo thời cơ và sẵn sàng chớp thời cơ tiến lên giành thắng lợi lớn, kể cả giải phóng Huế”3. Như vậy, lực lượng chủ lực được xác định tham gia trong chiến dịch là Quân khu Trị Thiên và lực lượng bộ đội chủ lực của Quân đoàn II do Thiếu tướng Nguyễn Hữu An làm tư lệnh, đồng chí Lê Linh làm chính ủy Quân đoàn.

Ngày 8/3/1975, chiến dịch Xuân - Hè ở Trị Thiên bắt đầu trên cả 8 huyện và vùng ven đô. Năm giờ 45 phút sáng ngày 8/3/1975, pháo của Sư đoàn 324 bắt đầu dội xuống các cứ điểm địch, mở màn chiến dịch. Đến ngày 15/3/1975, quân giải phóng đã phá vỡ một mảng lớn hệ thống phòng ngự của địch ở đường 14, thu hút một phần lớn chủ lực của địch vào khu vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân ta tấn công địch trên khắp địa bàn tỉnh. Phối hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, từ 21 giờ đêm 8/3/1975, quân và dân các huyện đồng loạt nổi dậy, tấn công vào hơn 30 phân chi khu quân sự của địch, hỗ trợ cho hàng nghìn quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ. Trong lúc chiến trường Trị Thiên đang sôi động, ở Tây Nguyên thắng lớn, giải phóng Buôn Mê Thuột, quân đội Sài Gòn rút khỏi Tây Nguyên. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975, thay cho kế hoạch trước đó là năm 1976. Quân ủy Trung ương đã điện cho Quân khu ủy: “Ta thắng to, tình hình phát triển nhanh và thời cơ lớn đang đến sớm hơn ta dự kiến... Trị Thiên có những thuận lợi mới để đẩy mạnh hoạt động mọi mặt... Đẩy mạnh tấn công của chủ lực từ phía tây, thực hành chia cắt chiến lược giữa Huế -Đà Nẵng”4. Lúc này, tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu I của chế độ Sài Gòn được lệnh phải giữ bằng được Huế hô hào “Tử thủ cho Huế” tuy nhiên tinh thần phía địch đã xuống thấp, tuyến phòng thủ Quảng Trị gần như bỏ ngỏ.

Ngày 17/3/1975, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy trên cơ sở thực tế chiến trường, căn cứ vào tình hình lực lượng hai bên đã nhận định: “Địch ở Trị Thiên đang hoang mang, dao động mạnh, thời cơ mới xuất hiện, nhân dân Trị Thiên cần khẩn trương và mạnh bạo tiến công, dùng lực lượng tại chỗ đánh mạnh vào tuyến phòng thủ của đối phương, kết hợp với thọc sâu chia cắt, phá thế co cụm của kẻ thù, giành thắng lợi lớn ở vùng đồng bằng, tiến tới bao vây và cô lập Huế, thời gian chậm nhất là ngày 19/3/1975, tất cả các lực lượng phải tiến công”5. Các lực lượng chiến đấu chủ lực, quân và dân Trị Thiên ngay lập tức sôi sục chuẩn bị chiến đấu, quyết tâm giành thắng lợi cuối cùng đã gần kề. Tuy vậy, trong kế hoạch tiến công, Khu ủy lo nhất là địch co cụm ở Huế. Vì như vậy sẽ dễ làm tổn hại thành phố và các công trình kiến trúc lâu đời. Do đó, phương án bao vây chia cắt địch để tiêu diệt bên ngoài thành được chọn lựa qua hai đường huyết mạch 78 và đường 1. Đây được xem là một quyết định đúng đắn, nhân văn của những chỉ huy tiền phương.

5 giờ sáng ngày 21/3/1975, quân ta đồng loạt nổ súng tấn công đợt hai, giải phóng Thừa Thiên Huế. Với tinh thần “một ngày bằng 20 năm” quân ta dốc toàn bộ lực lượng mở cuộc tấn công, quần chúng nhân dân nổi dậy khắp nơi. Từ nhiều hướng, quân ta đánh vỡ tuyến phòng ngự của địch, tạo vòng vây kẹp chặt địch ở thành phố Huế và cửa Thuận An. Lúc này, quân, dân các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà nổi dậy chiếm các quận lỵ, nắm chính quyền. Sau 22 ngày đêm cùng Quân đoàn 2 chiến đấu liên tục, khẩn trương, anh dũng, quân và dân Trị Thiên đã giành thắng lợi hoàn toàn, Trị Thiên được giải phóng. 6 giờ 30 phút ngày 26/3/1975, Trung đoàn 6 kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên đỉnh Kỳ Đài, đánh dấu mốc lịch sử Thừa Thiên Huế hoàn toàn giải phóng.

Ngày 28/3/1975, Quân ủy Trung ương gửi điện biểu dương các lực lượng tham gia chiến dịch giải phóng Trị Thiên: “Việc đánh chiếm, giải phóng thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên Huế là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược lớn. Chiến công đó làm cho nhân dân cả nước phấn khởi, làm cho địch suy yếu thêm một bước mới nghiêm trọng, góp phần làm rạng rỡ truyền thống đấu tranh anh dũng, kiên cường của quân và dân cả nước”6. Ngay sau đó là quá trình tổ chức chính quyền, củng cố thắng lợi trên địa bàn và tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ quan trọng khác.

Trung tướng Lê Tự Đồng viết trong hồi ký ngày 26/3 khi chiến dịch giải phóng Huế đã thành công: “Tôi mở cửa sổ nhìn ra sông Hương êm đềm một màu sương bạc như tấm dù trắng thênh thang tỏa lên một màu sáng mát mẻ dịu dàng”. Vị tướng bao năm sương gió chiến trường cuối cùng cũng thốt nên một lời yên bình, thở phào thay cho những năm tháng vào sinh ra tử. Và người đồng chí phụ tá cũng thốt lên: “Anh ơi! Tôi có cảm giác như một giấc mơ! Mới hôm nào chiến đấu ác liệt là thế, mà bây giờ chúng ta đã về giữa lòng Huế thơ mộng này”7.

Chiến dịch giải phóng Huế đã đập tan tấm lá chắn mạnh nhất của địch ở phía Bắc, góp phần quyết định vào thắng lợi chiến dịch Huế - Đà Nẵng, tạo đà chiến thắng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. 48 năm đã trôi qua, ngày 26/3 vẫn luôn là ngày thiêng liêng của những người dân xứ Huế. Đó là một ngày đầy tự hào và mở ra một thời kỳ mới của vùng đất cố đô. Bao thế hệ người dân xứ sở này đã tiếp nối, xây dựng Huế ngày càng phát triển. Cho đến hôm nay, Huế đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, phấn đấu xứng tầm là một trong những trung tâm văn hóa - du lịch, y tế chuyên sâu, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ của cả nước và khu vực.

L.Q.M
(TCSH48SDB/03-2023)

-------------------------------
1 Lê Tự Đồng, Tình dân biển cả, Nxb. Thuận Hóa, 1993, tr.170.
2 Lê Tự Đồng, Sđd, tr.170.
3 Kiều Tam Nguyên (Chủ biên), Chiến trường Trị-Thiên-Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1985, tr.242.
4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại thắng mùa Xuân 1975 - Văn kiện Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.148.
5 Võ Văn Minh (Chủ biên), Quân Khu 4: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), 1994, Nxb. Quân đội nhân dân, tr.456.
6 Võ Văn Minh (Chủ biên). Sđd, tr. 467.
7 Lê Tự Đồng, Tình dân biển cả, Nxb. Thuận Hóa, 1993, trang 192.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM HẠNH THƯ

    Du lịch Huế xưa
    Du lịch Huế có một lịch sử thơ ca dân gian gắn liền với những bước phát triển của mình.

  • LÊ VĂN LÂN 

    Khi nói đến xây dựng và phát triển Huế, không ai không nghĩ đó là một “thành phố xanh”. Đó không chỉ là suy nghĩ của những nhà đô thị hiện đại mà là một chuỗi trăn trở từ những người đầu tiên xây dựng Huế, những người dân bản địa đến các nhà nghiên cứu, nhà văn hóa, du khách đến Huế trong và ngoài nước.

  • PHƯƠNG ANH

    Thủy Biều - làng quê cổ kính

    Ai từng đến vùng đất phù sa bãi bồi bên dòng sông Hương, hẳn không quên được cái mát mẻ, trong lành và cổ kính cùng với con người hòa nhã nơi đây; Thủy Biều, vùng đất của xứ hoa thơm quả ngọt.

  • Không phải đền đài, lăng tẩm uy nghi mà chính những điều bình dị như góc phố yên bình hay giọng nói ngọt ngào đã để lại nỗi nhớ khôn nguôi trong lòng du khách.

  • LTS: Cuối tháng 4, trên đường từ thành phố Hồ Chí Minh trở lại Hà Nội, sau đợt "trốn rét", bác sĩ Nguyễn Khắc Viện có ghé lại Huế. Bác sĩ định dừng chân lại đây lặng lẽ, âm thầm "trò chuyện" với những kỷ niệm thời niên thiếu của mình 65 năm trước. Thế nhưng những người mến mộ bác sĩ ở Huế lại không muốn như vậy. Và thế là những cuộc "chuyện trò" chung đã được tổ chức, tiếp ngày này sang ngày khác, giữa bác sĩ và cán bộ các ngành các giới. Dưới đây là một mẩu "chuyện trò" bác sĩ gởi lại bạn đọc Sông Hương trước khi lên đường.(S.H)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Mùa hạ, mùa sen.
    Sen kín mặt các hồ Tịnh Tâm, hồ hào thành quanh Thành Nội.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

    Chúng tôi không quy lại vấn đề từ đầu để khẳng định sự tồn tại của "Văn hóa Phú Xuân", nghĩa là xét xem liệu thuật ngữ "Văn hóa Phú Xuân" có một nội dung đích thực hay không; công việc này giáo sư Lê Văn Hảo đã làm xong, qua một loạt những công trình kiểm kê có tính hệ thống của ông.

  • Lâu nay, Huế được mệnh danh là miền đất của thi ca, đồng thời là vùng văn hóa ẩm thực lớn của cả nước. Sinh ra và trưởng thành trong môi trường đặc trưng thi vị ấy, rất nhiều phụ nữ Huế trở thành những tác gia tiêu biểu trên lĩnh vực nghệ thuật ẩm thực.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC - NGUYỄN XUÂN HOA

    Phú Xuân - Huế là nơi có nhiều danh nhân lịch sử và văn hóa của đất nước đã sống và làm việc.

  • Bài phát biểu của nhà văn Tô Nhuận Vỹ, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương trong Hội thảo nhân kỷ niệm 300 năm Phú Xuân do Thành ủy và UBND thành phố Huế tổ chức cuối 1987.

  • Đến Huế mà chưa thưởng thức hết những món bánh bèo, bánh nậm, lọc, ít, ram, khoái... thì quả là đáng tiếc.

  • LÊ VĂN LÂN

    Phong trào đô thị trong chống Mỹ cứu nước được khởi đầu bằng phong trào Hòa Bình, phong trào phát triển sâu rộng ở các thành thị miền Nam, đặc biệt là Huế và Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay)…

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG  

    Thần Phù là một làng lớn ở phía Nam kinh thành Huế, dưới thời Nguyễn có đơn vị hành chính là xã, thuộc tổng Lương Văn, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên.

  • NGUYỄN HUY KHUYẾN 

    Sông Hương núi Ngự từ xưa đến nay vẫn là thi tứ quen thuộc của nhiều tao nhân mặc khách du ngoạn thưởng lãm làm thơ. Ngay cả các vị vua triều Nguyễn viết về sông Hương núi Ngự cũng không ít bài. Ngoài việc nơi đây là cảnh đẹp hiếm có của đất Thần kinh, nó còn là báu vật của tự nhiên ban tặng để bảo vệ Kinh đô. Theo thuật phong thủy, Ngự Bình làm tiền án, sông Hương làm minh đường.

  • Hiếm có món ăn nào chứa đầy mâu thuẫn và cũng đầy... hợp lý như bún bò Huế.

  • Khi biết tôi muốn đến làng Chuồn - ngôi làng lớn ở xã Phú An, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế, nhiều người ở TP Huế đã nhắc tôi phải rất ý tứ, kẻo làm phật lòng người dân ở ngôi làng “có cá tính” này. 

  • Lâu nay, nhiều người ở thị xã Hương Thủy, và có những người ở địa phương khác thường gọi hai ngôi làng một ở xã Thủy Vân, một ở phường Thủy Phương hiện nay, là Dạ Lê (bao gồm làng Chánh ở xã Thủy Vân và làng Thượng ở phường Thủy Phương). 

  • MAI KHẮC ỨNG - TỐNG VIẾT TUẤN

    Giữa sân Thế Miếu trong Hoàng Thành thuộc cố đô Huế có chín đỉnh đồng lớn được gọi một tên chung là Cửu Đỉnh.

  • Ký sự NGUYỄN ĐĂNG HỰU

    Tam Giang rộng lắm ai ơi
    Ai về ngoài Sịa nhắn người năm xưa

  • Mỗi khi đông về, nhiều góc phố ở cố đô thơm lừng món chè nóng hấp dẫn học trò. Mùa mưa ở Huế thường kéo dài từ tháng 7 đến tháng chạp, bắt đầu bằng những cơn dông đầu thu ồn ào đến những cơn mưa dầm dai dẳng, lạnh buốt xuyên suốt mùa đông.