Khi nói Huế rặt, tôi muốn kể chuyện chỉ có Huế mới có, không lẫn vào đâu được ...
Hình ảnh của ngựa Thượng Tứ qua nét vẽ của Gras, BAVH.
Nước đái bà Chúa
Trời tháng Sáu ở Huế. Mới buổi sáng mà gió Nam đã thổi sớm, hứa hẹn một ngày nóng kinh người. Chặt xong ba cây chuối sứ cho bầy heo bốn con ở nhà, chị Lùn đi vào bếp, xin bà ngoại tôi nước uống. Chị biết bao giờ bà tôi cũng có một nồi nước chè tươi ngon lành, không chè Truồi thì cũng chè Tuần. Vừa nghiêng cái om (nồi) nước chè rót vào cái tô sành, miệng chị đã bài bãi la lên:
-Ui chao ! Nước chè chi của mệ vừa nguội ngắt vừa trong như nước đái bà chúa, ri.
Bà tôi trả lời:
- Cái con ni ăn nói vô duyên ỏm. Dễ chi có nước đái bà chúa cho mi uống. Sáng ni mụ Lời bán trầu chè chưa đi ngang đây thì lấy mô ra chè tươi để nấu, mà chê nguội với nóng.
Ngoài Huế ra, có lẽ không có một địa phương nào khác có lối diễn tả độc đáo và buồn cười như vậy. Vừa thanh vừa tục. Bình dân và quí tộc có mặt đề huề. Để chỉ độ loãng tối đa của một nồi chè tươi hay một ấm trà đến lúc không còn nhận ra màu sắc hay hương vị thường có của nó nữa, người ta đã mượn đến cái trong trẻo của nước đái bà công chúa cho dễ gây ấn tượng khi so sánh. Trong trí óc chất phác của người bình dân xứ Huế thời xưa, thuở vàng son cung đình còn rực rỡ, có lẽ cái gì thuộc về vua chúa cũng có phẩm chất tuyệt hảo. Thế nên đã là công chúa lá ngọc cành vàng thì không những đương nhiên nàng phải có cái nhan sắc tuyệt mỹ như tiên nga gíang thế, mà đến cái chất thải kia của nàng cũng trong trẻo khác thường và không có cái mùi vị ô uế khó ngửi như của đám tiện dân, nên rất đáng đem ra làm mẫu mực để so sánh ! Quả là một ý nghĩ ngộ nghĩnh hiếm có và rất…tiếu lâm.
Ngựa Thượng Tứ
Giữa trưa, đang thiêm thiếp trên chiếc võng gai mắc dưới hai gốc vú sữa im mát, tôi bỗng giật mình vì tiếng bà Cửu Thí cạnh nhà:
- Lài ơi, Lài ! Lài ơi, Lài!
Không có tiếng chị Lài trả lời.
- Đứa mô chạy qua nhà bà Mới kêu con Lài về đây tau biểu. Con ni ngày càng hư. Hở ra là chạy rong như ngựa Thượng Tứ, không lo ở nhà trông coi nhà cửa chi hết. Không biết nhà bà Mới có làm chay hát bội chi không mà trưa mô cũng qua tụ tập chuyện trò.
Lại ngựa Thượng Tứ. Trong mười cửa ra vào Kinh thành Huế, có lẽ cửa Đông Nam với cái tên thông tục Thượng Tứ là quen thuộc với mọi người hơn cả, kể cả những người ngoại tỉnh đã có lần đến Huế. Người ta hầu như đã quên cái tên chính thức Đông Nam dù ba chữ Đông Nam Môn được khắc trên một cái bảng vôi lớn gắn trên vòm cửa vẫn còn đó. Người ta chỉ biết có Thượng Tứ vì hồi xa xưa, khi triều Nguyễn còn làm chủ đất nước, đã có một đơn vị kỵ binh tinh nhuệ, mang tên Thượng Tứ, đóng ngay bên trong cửa. Có lẽ những con ngựa Thượng Tứ thường xuất hiện trước mắt người dân qua những lần thao diễn, tập luyện hay tuần phòng với tiếng vó ngựa dập dồn, tiếng hí dài náo động, những bóng ngựa thoáng hiện thoáng mất, rậm rật trên đường, những mùa ngựa cái động đực bày ra những cảnh khó coi trên những bãi cỏ ven đường v.v. đã gây ấn tượng về một cái gì thường xuyên động chuyển, ồn ào, không chịu ở yên, có khi lộ liễu lăng loàn khó coi, không đáng có nơi chỗ đông người v.v. Ấn tượng đó được liên hệ với trường hợp những cô gái thiếu nết na dịu dàng, không thích không khí gia đình mà chỉ muốn rong chơi chòm xóm, tụ tập, lân la. Tiến xa hơn nữa, đó là hình ảnh của những phụ nữ trắc nết, lăng nhăng trong vấn đề quan hệ trai gái.
Năm thái giám (hình bưu thiếp)
Vua làm việc tại điện Cần Chánh hay điện Văn Minh, và ăn ở tại điện Càn Thành, còn chánh phi thì ở tại cung Khôn Thái. Các thứ phi thì ở điện Trinh Minh, các cung tần thì chia nhau ở trong 6 viện (lục viện) là Thuận Huy, Đoan Huy, Đoan Thuận, Đoan Hòa, Đoan Trang và Đoan Trường. Sát về phía Tây của Tử Cấm thành có hai cung quan trọng khác dành cho các bậc bề trên của vua. Đó là cung Diên Thọ, dành cho bà nội vua (Thái hoàng thái hậu) và cung Trường Sanh dành cho mẹ vua (Thái hậu).
Vậy thì tam cung lục viện của Nhà Nguyễn bao gồm thế giới đàn bà sau lưng vua, gồm cả thế hệ trên trước lẫn phi tần cung nữ. Thế giới này là cung cấm, hiểu theo nghĩa đen, vì ngoài vua ra, cấm không có một bóng dáng đàn ông nào được lai vãng. Để lửa gần rơm thế nào rồi cũng có ngày sinh chuyện, nên phải nghiêm cấm như thế cho đúng phép tắc lễ nghi, và … an toàn! Tuy nhiên, cung cấm cũng có lúc cần đến người có sức khỏe, cần người làm con thoi liên lạc giữa vua và hậu cung, nghĩa là cần người có sức khỏe phục vụ mà vẫn bảo đảm đươc sự an toàn như ý muốn của vua. Đó là các thái giám, thường được gọi là các ông giám.
Về mặt sinh lý, thái giám là người thuộc loại không rõ ràng về mặt giới tính (ái nam ái nữ) do bẩm sinh (ông bộ nắp), hoặc do người nam tự nguyện hủy bộ phận sinh dục để được làm giám (giám thiến, giám lặt), suốt đời phục vụ trong cung cấm, vừa có địa vị, bổng lộc, gần gũi vua chúa, lại khỏi nắng mưa vất vả ngoài đời.
Ngay cả với phương tiện giải phẫu tiến bộ như ngày nay, vừa an toàn vừa không đau đớn, liệu có đấng nam nhi nào dám hy sinh “của quí” để mưu cầu một địa vị nào đó chăng? Thời xưa, có triều đại đã dùng biện pháp cắt bỏ bộ phận sinh dục nam như một nhục hình dành cho trọng tội. Vậy nên số người vì miếng cơm manh áo mà tự nguyện làm giám hẳn là rất hiếm hoi, trong khi đó nhu cầu cung cấm đòi hỏi phải có đầy đủ nhân lực kế thừa liên tục. Thế nên chỉ còn trông cậy vào hạng giám... trời cho (bẩm sinh).
Đã gọi rằng của trời cho thì hẳn không phải dễ kiếm. Vua biết rõ sự chênh lệch về cung cầu này nên đã ban hành một qui chế đặc biệt cho giám bẩm sinh. Theo đó, hễ làng xã nào trong nước có gia đình sinh con ái nam ái nữ thì phải báo ngay lên huyện để huyện khám xét. Sau khi xác minh được tình trạng đặc biệt của hài nhi, huyện sẽ theo hệ thống hành chánh để báo lên phủ, rồi lên tỉnh. Tỉnh sẽ báo về Bộ Lễ, là cơ quan trung ương đặc trách về giáo dục và nghi lễ của triều đình. Lý lịch đứa bé như thế đã được “đăng ký” và từ đó nhà nước sẽ chu cấp để nuôi dưỡng.
Cha mẹ đứa bé, vì có công sinh con hữu ích cho vua, nên được miễn sưu dịch và thuế đinh, lại còn được cấp công điền công thổ để cày cấy nuôi con. Làng sở tại, nơi có đứa bé sinh ra, cũng được hưởng chút thơm lây, ấy là làng được miễn sưu thuế trong một số năm nào đó, chưa kể có thể có những đặc ân bất thường khác, tùy dịp và tùy lòng tốt của vua. Có đứa bé mang khuyết tật bẩm sinh nào lại có thể mang vinh dự và lợi lộc về cho cha mẹ và làng nước như vậy chăng? Có đứa bé nào mới sinh ra mà đã trở thành người của vua như vậy chăng? Quả là hiếm hoi quí báu!
Vậy thì để tỏ lòng biết ơn (người đã mang lại ân huệ) và kính trọng (người của vua), làng không gọi đứa bé kia là thằng này thằng nọ nữa, mà gọi là ông Bộ. Rõ ràng là đẻ ông Bộ thì làng được nhờ. Tôi chưa được xem tài liệu hay nghe người nào khác giải thích về nguồn gốc và ý nghĩa của chữ “Bộ” này. Thiết nghĩ đứa bé do Bộ Lễ quản lý, là người của Bộ, của vua, nên được gọi là ông Bộ chăng?
Đến năm ông Bộ được 12 tuổi, Bộ Lễ yêu cầu tỉnh sở tại lập thủ tục đưa đứa bé về Kinh. Cũng như số phận của người con gái vô Nội, ông Bộ cũng một đi không trở lại. Cuộc chia tay này thường là một vĩnh biệt. Theo hệ thống giao thông cung trạm, ông Bộ được hộ tống về Huế, trình diện Bộ Lễ. Tại đây, sau khi được kiểm tra lần cuối về tình trạng giới tính (giám thật hay giám giả), nếu được chấp thuận, đứa bé được chuyển vào cung cấm. Một thái giám giàu kinh nghiệm sẽ được giao làm người đỡ đầu, có nhiệm vụ rèn cặp ông Bộ công việc sẽ đảm đương, cùng những lễ nghi cung cách chốn cung đình để khi trưởng thành có thể nối nghiệp đàn cha đàn anh.
Trong lịch sử Việt Nam, có lẽ thời vua Lê chúa Trịnh là thời hoàng kim của các thái giám. Sử cho biết rằng quan chế thời ấy được tổ chức thành ba ban thay vì hai ban như các triều đại khác. Đó là ban quan Văn, ban quan Võ và ban Thái giám. Thái giám thời ấy được dự vào việc cai trị chứ không phải quanh quẩn trong cung cấm. Có nhiều thái giám được phong tới tước Hầu và rất có thế lực trong triều đình .
Đời Nhà Nguyễn, thái giám có cuộc đời khiêm tốn hơn. Tuy họ cũng làm quan – vì họ cũng có đẳng cấp và bổng lộc – nhưng chỉ có mỗi một quyền, đó là quyền được phục vụ hoàng gia trong cung cấm cho đến mãn đời. Do vị trí đăc biệt ở trong cung nên thái giám được coi là hạng người có ưu thế biết rõ chuyện thâm cung bí sử hơn bất cứ ai khác. Tiếc thay, cho đến nay họ không để lại cho hậu thế một tiết lộ nào về những bí mật ấy.
Trong quan niệm của Nho giáo, bất hiếu là một tôi nặng, trong đó nặng nhất là không có con trai để nối dõi tông đường (bất hiếu hữu tam, vô tự vi đại). Dĩ nhiên luân lý của xã hội xưa không lấy đó làm điều để trách cứ mấy ông thái giám. Tuy nhiên, lúc đến cái tuổi trăng tà bóng xế, ngó quanh ngó quẩn không thấy ai ở bên mình, chạnh nghĩ tới cảnh hương tàn bàn lạnh khi nằm xuống, các thái giám không khỏi buồn tủi.
Chính vì cảm thông điều này và để cho các thái giám có nơi nương tựa phần hồn sau khi chết nên chùa Từ Hiếu được vua ban sắc chỉ thành lập. Hầu hết các thái giám đều được ký tự ở đó. Ngày trước, chùa Từ Hiếu được xem là một ngôi chùa giàu ở Huế. Gọi rằng giàu là vì người ta thấy chùa có nhiều ruộng đất làm hoa lợi, do các thái giám mua cúng vào chùa để được hưởng hương khói, kinh kệ về sau .
Cổng chùa Từ Hiếu, bên trong
Ở góc đường Đoàn Thị Điểm và Hòa Bình (Đặng Thái Thân ngày nay) trong Thành Nội, ngay góc Đông Bắc của Đại Nội, có một ngôi nhà cổ nằm cô độc sát bờ hồ, ít ai để ý. Đó là Bình An Đường của ngày xưa, nằm trong danh sách quần thể kiến trúc của kinh đô.
Như cái tên gọi của nó – nhà bình an – ngôi nhà này chính là trạm điều dưỡng của cung nữ và thái giám. Khi cung nữ hay thái giám bị bệnh nặng, họ được đưa ra điều trị và an dưỡng tại đây, vừa tránh được lây lan vừa tiện cho thân nhân ở lại chăm sóc thuốc men, cơm cháo. Vạn nhất, nếu không qua khỏi thì cũng tiện cho thân nhân lo việc ma chay. Nếu cung nữ hay thái giám chẳng may bị bạo bệnh, chết đột ngột ở trong cung, họ sẽ lâm vào cảnh khá tủi thân, ấy là xác của họ sẽ được bó chiếu, rồi người ta sẽ dùng dây đưa lên mặt hoàng thành phía Bắc, gần cửa Hòa Bình, để đưa ra ngoài cho thân nhân nhận về lo ma chay. Theo qui định thời đó, người không thuộc về hoàng gia mà chết trong cung cấm thì không được đưa xác ra ngoài qua các cửa hoàng thành. Xác của cung nữ hay thái giám phải “leo thành” là vậy.
Bình An đường
Chế độ quân chủ cuối cùng của Việt Nam chấm dứt vào tháng 8 năm 1945. Tính ra mới tròm trèm 50 năm, thời gian quá ngắn để một vật dụng trở thành món đồ cổ. Vậy mà những cái Huế rặt vừa nói xem ra đã trở thành đồ cổ mất rồi. Ngay trên đất quê hương những lối nói như thế cũng không còn thông dụng trong thế hệ trẻ nữa, nói chi ở xứ người.
Chào xuân Canh Dần 2010, Câu lạc bộ Họa sĩ trẻ Huế đã phối với Café- Gallery Sông Như tổ chức triển lãm mang tên “ Năm Canh Cọp”, được diễn vào chiều ngày 6/2, tại số 14 kiệt 7 Nguyễn Công Trứ, Huế.
Chào mừng 80 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mừng Xuân Canh Dần 2010, chiều ngày 5/2, Hội Liên hiệp VHNT- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã phối hợp tổ chức khai mạc triển lãm “Mỹ thuật Mùa Xuân” tại 26 Lê Lợi và phòng tranh “ Con Cọp năm Dần” tại Tạp chí Sông Hương, số 9 Phạm Hồng Thái, Huế.
Sáng ngày 4/2, tại thủ đô Hà Nội, Tạp chí Văn nghệ Quân đội - Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam và Tạp chí Sông Hương - Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã phát động cuộc thi thơ Lục bát năm 2010. Thể lệ cuộc thi thơ Lục bát 2010.
Sáng ngày 01/02, tại Trung tâm Văn hóa Thông tin tỉnh, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế đã long trọng kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sáng ngày 31/1, Hội Âm nhạc Thừa Thiên Huế phối hợp với Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch và Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã khai mạc trại sáng tác ca khúc tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ nhất.
Sáng ngày 27/1, Ban tổ chức giải thưởng VHNT Cố đô tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ IV đã tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng cho 33 tác phẩm, công trình nghệ thuật xuất sắc được sáng tác trong giai đoạn 2003- 2008.Kết quả Giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố đô lần thứ IV
Đoàn múa rối “Tof Théâtre”, đoàn Xiếc nghệ thuật “ Baladeu’x “ và nghệ sỹ nghệ sĩ hài kịch Bỉ gốc Việt Michelle Nguyen thuộc Phái đoàn Wallonie - Bruxelles sẽ tham gia biểu diễn tại Festival Huế 2010, diễn ra từ ngày 5 đến ngày 13 tháng 6 năm 2010.
Chiều ngày 21/1, tại Hà Nội, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao đã tổ chức họp báo giới thiệu về Festival Huế 2010. Festival Huế 2010: Nơi gặp gỡ các thành phố cố đô - Điểm hẹn của Di sản Văn hóa
Chiều ngày 12/01, tại khách sạn Hương Giang, TP Huế, Ban điều hành Lễ hội đền Huyền Trân tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức họp báo giới thiệu Chương trình tổ chức Lễ hội đền Huyền Trân.
Tối ngày 9/1, tại Núi Bân, phường An Tây, UBND TP Huế đã tổ chức Lễ khánh thành Khu tượng đài Anh hùng dân tộc Quang Trung và tái hiện Lễ hội Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế với sự tham gia của các đơn vị nghệ thuật ở tỉnh Thừa Thiên - Huế và Trung tâm TDTT tỉnh Bình Định.
Ngày 08/01/2010, tại 26 Lê Lợi, Hội Liên hiệp VHNT Thừ Thiên Huế đã tổ chức trao tặng Tặng thưởng hàng năm cho các tác phẩm-công trình xuất sắc năm 2009 cho 12 tác giả là hội viên của 6 hội chuyên ngành.
Nhân kỷ niệm 95 năm ngày sinh của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1/1/1914 - 1/1/2010), họa sĩ Nguyễn Đình Dàng đã trao tặng bức tranh sơn dầu vẽ cảnh Bác Hồ gặp Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bên ao Sen tại Hà Tĩnh cho Di tích lịch sử cấp quốc gia - Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tại thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền.
Sau 2 ngày làm việc (26-27/12) tại Văn phòng Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Hội đồng Chung khảo Giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố đô lần thứ IV (2003-2008) đã thống nhất giới thiệu 37/54 tác phẩm, công trình (thuộc các lĩnh vực: nhiếp ảnh, mỹ thuật, kiến trúc, sân khấu, múa, âm nhạc, văn nghệ dân gian và văn học) để bỏ phiếu kín, chấm điểm xếp thứ hạng giải thưởng.
Chào mừng 65 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 20 năm ngày Quốc phòng toàn dân, sáng ngày 21/12, Bảo tàng Hồ Chí Minh tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức khai mạc triển lãm chuyên đề “ Chủ tịch Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân” tại trụ sở Bảo tàng, số 7 Lê Lợi, Huế.
Sáng ngày 10/12, Bệnh viện Trung ương Huế đã tổ chức Lễ kỷ niệm 115 năm thành lập , đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất và công nhận danh hiệu " bệnh viện hạng đặc biệt".
Chào mừng 58 năm ngày truyền thống Mỹ thuật Việt Nam 10/12 và Đại hội Mỹ thuật Việt Nam, chiều ngày 7/12, tại Trung tâm Văn hoá Liễu Quán, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Hội Mỹ Thuật tỉnh tổ chức triển lãm “ Mỹ Thuật Thừa Thiên Huế 2009”.
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô là một giải thưởng có uy tín của tỉnh Thừa Thiên Huế, được tổ chức định kỳ 5 năm một lần.
Tối nay, 1/12, tại Nhà Văn hoá thành phố Huế, các nghệ sỹ diễn viên nhà hát TNT đến từ Luân Đôn, Vương Quốc Anh sẽ biểu diễn vở nhạc kịch Quà tặng Giáng sinh (A Christmas Carol) của đại văn hào Charles Dickens, do đạo diễn nổi tiếng Paul Stebbings dàn dựng.
Chiều ngày 24/11, tại 26 Lê Lợi, Hội Liên hiệp VHNT Thừa Thiên Huế đã khai mạc triển lãm ảnh nghệ thuật Những khoảnh khắc Cố đô.
Chiều ngày 23/11, trại Cung An Định, Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế đã khai mạc triển lãm “Cổ vật hiến tặng, tiếp nhận mới”.