Huế của người ta

15:25 11/02/2009
VÕ NGỌC LANTôi sinh ra và lớn lên tại vùng Kim Long, một làng nhỏ thuộc vùng cận sơn, không xa Huế là bao. Bởi thuở nhỏ chỉ loanh quanh trong nhà, trong làng ít khi được “đi phố” nên đối với tôi, Huế là một cái gì thật xa cách, thật lạ lùng. Đến nỗi tôi có ý nghĩ buồn cười: “Huế là của người ta, của ai đó, chứ không phải là Huế của tôi”, ngôi chợ mái trường, một khoảng sông xanh ngắt và tiếng chuông chùa Linh Mụ... mấy thứ ấy mới là của tôi.

Của tôi cả tiếng hò chơi vơi vang vọng trên mặt sông đêm khuya từng làm tôi thao thức; của tôi vầng trăng bạc nhô lên sau nóc nhà máy vôi Long Thọ đang lấp lánh trên dòng sông Hương; của tôi tiếng trống lành canh đuổi cá trên sông; của tôi những buổi trưa hè đi búng mít trong khu vườn xanh um, rậm rạp, mũi hấp háy vì mùi mít chín ngọt ngào, tai nghe đàn ve kêu ra rả. Của tôi những buổi trưa hái trái bưởi non cùng đánh thẻ hay “nhảy tàu bay” với đám các con Lọt, con Tẻo, con Qui, con Gái... chơi chán rồi lại chia nhau mớ hột móc, hột muồng...
Còn... Huế thì đúng là của người ta, bởi tôi thường sợ hết hồn khi được mạ dắt đi chợ Đông Ba. Hết hồn khi thấy xe điện chở lính Tây chạy lên, chạy xuống bóp còi inh ỏi, hết hồn vì choáng ngợp bởi phố xá cao rộng, toà ngang dãy dọc, những hiệu kim hoàn sáng rực, những hiệu Bom Bay bán tơ lụa của người Ấn Độ và Ngã Giữa, đi ngang cứ có cảm tưởng xây xẩm mặt mày vì mùi hương trầm. Huế rộn ràng quá, thanh lịch quá, hoàng thành bí mật quá, những chiếc xe kéo gọng đồng, phu xe bịt khăn đóng sang quá, làm tôi bỡ ngỡ. Và những cô gái mới kiều diễm làm sao! Những chuyến “đi phố” ấy chỉ mang lại cho tôi cái ý tưởng Huế là một thế giới khác, của những ai khác chứ không phải Huế của tôi.

- Con đừng nghĩ bậy! Huế là của chúng ta. Có lần cha tôi nói với tôi như thế.
- Tạm thời chừ Huế đang nằm trong tay Pháp, tay Nhật, nhưng rồi chúng ta sẽ chiếm lại. Rồi đây Huế sẽ vĩnh viễn là của dân ta.
Tôi ngỡ ngàng khi nghe cha tôi nói là “chúng ta sẽ chiếm lại” trong “chúng ta” đó có tôi không? Cha tôi tiếp: Nay mai cha sẽ đi. Ở đây không yên được. Bọn mật thám theo dõi cha hoài. Mình sẽ diễn một vở kịch...
Hôm sau đó, giữa cha mạ tôi diễn ra một cuộc cãi vã dữ dội. Cha tôi đập bể không biết bao nhiêu đồ đạc trong nhà. Hàng xóm bu lại hồi hộp chứng kiến cảnh xô xát toé lửa của cha mạ tôi. Người ta lập tức kháo nhau “Vợ chồng họ giận nhau, chú ấy nổi giận đem con gái bỏ nhà ra đi”. Màn kịch thế là đã trọn vẹn. Bọn mật thám không có rình rập ở nhà tôi nữa, cha tôi đi rồi, những người trong gia đình như mạ tôi, chị tôi cũng hết sợ bị chúng bắt bớ, tra hỏi. Bù lại, họ được quyền chờ đợi, thương nhớ, lo lắng cho người ra đi, chẳng biết lúc mô về không nữa!

Cha tôi hành động thật kỳ lạ. Ông không lên núi, vào chiến khu ở địa phương mà mang tôi vào tuốt trong , chọn một bưng biền có nhiều chiến hữu quen thân. Con bé loắt choắt là tôi, chẳng mấy chốc mà quen ngay với tiếng liên thanh, đại bác, với ruộng đồng, kênh rạch, với bưng biền cùng lửa, máu.Tôi nhớ mạ, nhớ chị quay quắt, nhớ Kim Long, nhớ Huế, nhất là những ngày Tết, ngày xuân. Còn đâu những sáng mồng một Tết, dậy thật sớm, xúng xính quần áo mới, đi khoe với bạn bè. Tưởng mình dậy sớm, té ra tụi nó còn dậy sớm hơn mình, đưa nào cũng sột soạt áo mới, rủ nhau bu quanh những bàn bài vụ, nhất lục.
Ở bưng biền Nam Bộ, làm sao tôi nghe được tiếng mấy hột tào cáo reo vui trong chiếc tô kiểng của mấy nhà đánh xâm hường ngày Tết. Ôi, tiếng reo leng keng hoà với tiếng cười sao mà ấm áp. Làm sao tôi nghe được tiếng hô của chủ sòng bài Nhất Lục “Cất tay! Nhứt, tam, ngũ”  hoặc tiếng rao bài chòi quen thuộc nơi quê hương “Hai bên lẳng lặng mà nghe... đi chợ con Ầ... ầ... ầm”

Còn nhớ, hồi nhỏ tôi ghét nhất những ai Tết mà không chịu mặc áo mới. Có những người Tết nhất mặt cứ lầm lầm, lì lì, không chịu chung vui với mọi người. Lớn lên tôi mới thấy mình rõ là con nít. Có phải những người ấy không biết xuân, biết Tết đâu! Họ không mặc áo mới chỉ vì nghèo quá mà thôi, áo mới đâu mà mặc! Cho nên giả vờ như... không biết Tết.
Có một người nghèo không biết Tết.
Mang lì chiếc áo độ thu tàn.
                                    (Chế Lan Viên)
Chiến sự trong ngày càng căng thẳng. Thấy tôi còn nhỏ quá mà phải xông pha nguy hiểm, các bạn của ba tôi khuyên ông nên tìm cách gửi trả tôi về Huế. Cha tôi đành bấm bụng gởi tôi cho hai chú, nhân đi công tác ra Trung mang tôi đi theo.

Sau đó ít lâu, thì cha tôi hy sinh. Tôi về Huế với mẹ và chị, trải qua những ngày cơ cực. Chiến tranh đã khoác cho Huế một bộ mặt thảm hại. Nghèo. Buồn. Tan nát... Tôi bỗng thấy Huế nhỏ lại và gần mình hơn. Khác với ngày xưa thấy cái gì cũng lớn lao, bây giờ mình lớn lên thì mọi cái hình như nhỏ lại và cũng bình thường. Đúng là Người cao lớn bởi vì ta cúi thấp”. Tôi không còn coi Huế là của người ta nữa. Tôi ngẩng cao đầu, đi giữa Huế với tâm trong sáng, với lòng yêu thương tha thiết. Mặc dù dòng chảy cuộc đời đưa đẩy, phải bỏ Huế vào Nam, rồi bỏ Sài Gòn ra sống ở nước ngoài nhưng nhờ trời, có dịp đi đi, về về, tôi vẫn luôn gần gũi Huế để yên lòng khi nghĩ rằng: dầu Huế trải qua lắm phong ba, bão táp, giằng xé, giành giựt... nhưng tất cả rồi cũng đi qua, sóng lớp phế hưng, chuông hồi kim cổ... Còn đó, Huế vẫn mãi nghìn năm với cái đẹp, cái nên thơ thâm trầm của nó.
Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
Nói như Bùi Giáng.
V.N.L

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.

  • MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).

  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.

  • VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.

  • VÕ MẠNH LẬP                Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.

  • DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.

  • NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )

  • TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.

  • ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.

  • PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư  hoàn cảnh”.

  • ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...

  • TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!

  • LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.