Hồn Huế

17:25 11/05/2010
NGUYỄN THANH HÙNGTôi chưa biết Huế nên buồn vì bỏ qua một vẻ đẹp. Buồn vì mãi mãi không thể chiêm ngưỡng cố đô của đất nước một thời ngang ngửa. Một khoảng trống văn hóa về cổ vật kiến trúc nguyên vẹn của tịnh đô Huế không thể lấp đầy trong tôi, luôn tin tưởng vào sự hữu linh của vạn vật.

Ảnh: Internet

Thế giới tinh thần thiêng liêng của tồn tại nào mà chẳng do hồn người, tình người truyền sang từ lúc bắt đầu sáng tạo, làm sao có thể tái sinh khi nó là phế đô dưới cái nhìn lịch sử. Con mắt, hay nói đúng hơn, nhãn quan điều tiết và hoàn thiện tư tưởng sáng tạo để con người tự ngắm mình với những tầm cao của cái đẹp sẽ không còn cách nào để thuyết minh trọn vẹn. Mọi linh hồn ấy đã bay đi và làm cho thế giới này trống vắng!

Huế còn đó nhưng không thể tìm lại sự tương song. Cái nhìn trân trân vào Huế như một cõi xa, như một chứng tích lịch sử không thể bắt gặp dòng suối trong lành của niềm thanh thản vô tư lự về sự thuần khiết, thánh thiện của một kinh đô tươi tắn chan hòa sắc mầu trần thế. Chỉ riêng điều đó thôi, Huế đã xứng đáng được vọng tưởng, yêu dấu và cũng chính vì thế mà càng thật buồn khi hồn Huế đã lùi xa.

Rồi tôi sẽ tìm đến Huế một ngày nào đó. Huế xưa và nay có cái gì chung vậy? Cái gì đã được sơn phết cũng có nghĩa đồng thời là che phủ. Những đường cong uốn lượn nhẹ nhàng xưa kia của Huế không thể tạo nên những đường viền mơ hồ giữa bóng tối và ánh sáng, giữa nét đăm chiêu và nụ cười khi có quá nhiều sự can thiệp của một định khu du lịch.

Huế buồn do biến Huế thành vui, thành giải trí ít trí tuệ. Thị giác về Huế sẽ không còn khả năng phần biệt khác nhau về sắc màu tâm, hồn mà buộc phải chính xác cho mục đích được xiết chặt. Huế ngày nay không dành nhiều liên tưởng tự do cho du khách. Huế đã bị cưỡng đoạt bởi lòng tham châu báu và đang cưỡng bức sống lý tài cho một nhân cách không có trí tưởng tượng hồn nhiên.

Huế bây giờ đang được nhìn bởi dục vọng được hình thành một cách hỗn độn, pha tạp. Năng khiếu khúc xạ của thị giác và thị cảm hoàn toàn tê liệt đi trong một thế giới đồ vật bị cường điệu một số khía cạnh trước mắt mà quên rằng sức sống của Huế là thời gian. Tiếc thay sự cường điệu ấy không phải bằng cách tìm kiếm cái lớn lao mà đơn giản chỉ là thỏa mãn sự giải trí hài hước với những đường thẳng tuyệt đối của vật thể chứ không với những đường chuyển tiếp vô hạn giữa thực thể và huyền bí, giữa cái cao cả và sự thông thường, giữa khoái cảm và lương tri, giữa sự hoa lệ và bi thảm của số phận một triều đại cuối cùng có ý thức, không được ý thức, giữa sự dịu dàng và sự tàn nhẫn vì thị hiếu của chúng ta phần lớn là giả tạo.

Huế phải bằng mảnh đất và con người mình làm phồn vinh văn hóa Huế với tất cả sự kiên nhẫn của thời gian chứ không đọa đầy sự độc đáo của mình vì lợi ịch du lãm. Những nhà vườn cây cảnh tĩnh tâm, những sưu tập cá nhân đồ sộ, những ngôi nhà ám khói hương trầm dòng họ bất diệt, những nhà học và kinh kệ chốn Phật đài mở ra hư

không, những chiều thông vi vút và mưa bay, những cay đắng của dòng sông bèo bọt làm run rẩy vầng trăng và những chuyến đò ngang tắt lên chiến khu để còn Huế bây giờ với màu vàng của hoàng hôn lịch sử và màu đỏ bình mình cách mạng.

Tất cả hồn Huế phải được tái sinh để dẫn con người đến những xúc động sâu xa làm dịu lắng sự rã rời trong bão tố và mãi mãi trong cơn say ngây ngất những run rẩy tâm hồn với miền đất trọng.

Ai đã đến Huế một lần đều phải dừng chân nghĩ ngợi. Huế xa lạ và gần gũi biết bao! Huế xa vì đặc tính của riêng mình và Huế gần vì con người biết tự vượt qua cái tôi một bước chân là đến Huế. Nhà Lê bên kia đèo Ngang và nhà Nguyễn bên này nhưng tấm lòng Bà huyện Thanh Quan mở ra trong vẹn toàn giải đất. Nhỏ hẹp và thanh tú nên thường dễ bứt chia. Trong lòng bà huyện, tổ quốc được nhìn từ một đỉnh đèo có cái tên thương cảm, lòng người dựa đấy để phân ly. Bên này hay bên kia cũng đều gầy guộc như nhau những số phận người. Đến miền đất lạ chẳng cứ gì Huế, con người dường như được giải thoát, được rũ bỏ những định kiến hẹp hòi, những thói quen đường mòn lối cũ mà tiếc thay thời nay cũng còn nhiều dấu vết.

Những bài thơ nhớ tiếc hoàng hôn của bà huyện là sự trở về với cội rễ hiền minh, với khúc ruột mềm. Nếu xem xét ở góc độ nhân thân của bà thì sáu bài thơ hoặc ít hơn đã làm nên nền văn học bước qua tâm hồn chia cắt mà Hoàng Ngọc Hiến coi Tạ Duy Anh là hiện tượng “văn học bước qua lời nguyền”. Bà buồn đau với mảnh tình riêng vì đất nước khát khao trọn vẹn và hòa hợp chứ không đau cho sự hưng vong của một triều đại. Đất nước với bà dù là Thăng Long là đèo Ngang hay Huế không còn của riêng ai mà là sự cổ kính không ngày tháng của một dân tộc, là mặt trời vô tư đã tắt.

Hoang tàn trước hết là tự lòng người đã trở thành ký ức đá chưa nguôi làm sống lại mà vẫn độc thoại cô đơn với rêu xanh che phủ để thời gian, một hoạt chất của con người còn ý thức sống, mãi mãi thành ngôi mộ đá, thành tấm bia vĩnh cửu đọng lại gương mặt một thời bị lãng quên.

Huế đừng là thế nữa vì đã một lần duy nhất che chở trái tim bà huyện và tâm tình thơ của bà đã trả nợ và báo danh cho Huế hôm nay. Bà huyện là ai không cần có tên hoặc không ai biết cả. Bà là một vùng đất Thanh Quan, một nhúm đất của Tổ quốc trong bao la ngưỡng vọng ân tình. Bà là một giải phổ buồn với mầu hoàng hôn. Bà là hiện thân của sự nhắc nhở quá khứ vì quá khứ của đời người không ngừng tích tụ và cần được bảo toàn. Chỉ cần quay đầu nhìn lại là từ bỏ được lợi ích hiện tại để có sự dài lâu. Thơ bà là sự kiếm tìm trân trọng với thời gian chứ không minh họa cho cuộc đời riêng hay một ý nghĩa nào biết trước. Sự kiếm tìm trong dòng chảy thời gian cái đích thực, mà chỉ có kiếm tìm mới tạo ra những ý nghĩa riêng của nó. Cái vẻ cổ điển thanh tao trong thơ bà tạo nên sự thiếu tự nhiên nhất để lầm nổi rõ tấm lòng xúc cảm trước thời thế của bà đã vọng vào ta âm điệu chính xác nhất làm chúng ta cảm nhận sự tồn tại mơ hồ của một thế giới bên trong để con người hình dung về cuộc sống sắp tới và xa xôi mà kinh nghiệm đời sống hiền minh từng sắp đặt. Nguyên nhân tình cảm, sự thổn thức âu lo của trái tim bà không muốn phải nhìn cảnh xót xa tan nát bởi chia lìa luôn luôn là chất thơ được cảm nhận bởi cái nóng ấm và lạnh lẽo của hoàng hôn day dứt thôi thúc cuộc trở về. Hãy thôi nói về Huế buồn và tắt lặng ban khen nỗi u buồn cô tịch của nàng quận chúa Thanh Quan. Nỗi u buồn Thanh Quan tràn ra từ sự nhận thức sắc bén qui luật ngọt ngào của thời gian vì nó thay đổi và phát triển thường xuyên. Nó đang trở về một cái gì lớn hơn thế nữa để cuối cùng đích thực là nó trong hiện thực vô hình và cảm xúc dồn nén như Huế hôm nay.

N.T.H
(138/08-00)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.

  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...