Hội nghị lý luận phê bình văn học Tam Đảo

14:38 09/06/2009
BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

Trước khi triệu tập hội nghị này có nhà LL-PB đã tuyên bố “Sẽ không dự hội nghị nếu có Trần Mạnh Hảo”. Có lẽ vì thế mà Hội Nhà văn đã phải soạn thảo “Quy chế Hội nghị LL-PB Tam Đảo” phát cho tất cả đại biểu với nội dung chính như sau:

1. Hội nghị có Đoàn Chủ tịch và Ban thư ký. Đoàn Chủ tịch điều khiển hội nghị thảo luận, bàn bạc đúng những chủ đề và yêu cầu đã đặt ra. Ban thư ký giúp việc Đoàn Chủ tịch ghi chép biên bản hội nghị, tiếp nhận các tham luận và đăng ký phát biểu chuyển Đoàn Chủ tịch, lưu giữ các tham luận, để sau này in thành sách kỷ yếu hội nghị.

2. Các đại biểu phát biểu theo nội dung chương trình hội nghị và sự sắp xếp của Đoàn Chủ tịch. Thời gian dành cho mỗi tham luận không quá 15 phút.

3. Các phát biểu, tham luận nên tập trung vào 3 chủ đề đã nêu trong giấy mời (Nhìn lại chặng đường phát triển văn học giai đoạn 1975 – 2000: Thành tựu và hạn chế, những bài học kinh nghiệm – tình hình lý luận phê bình văn học hiện nay. Thực trạng ưu, khuyết điểm; nguyên nhân, giải pháp – Những vấn đề đặt ra cho sự phát triển văn học hiện nay. Nâng cao chất lượng sáng tác, vấn đề, nhân vật, trách nhiệm nhà văn, vai trò của LL-PBVH, vai trò của tổ chức Hội). Bảo đảm tính chất khoa học, trí tuệ, văn hoá của Hội nghị, nên tập trung lắng nghe ý kiến người khác, có thể có ý kiến trao đổi, nhưng không cắt ngang lúc người khác đang phát biểu; trên tinh thần đoàn kết, thực sự cầu thị, nghiêm túc, thẳng thắn, không sử dụng bài nói để đưa ra những thông tin thiếu căn cứ, không đả kích cá nhân”.

Từ chiều 13-8, gần 10 chiếc xe ca, xe con đã chở đại biểu tới Nhà nghỉ Công đoàn Tam Đảo, tay bắt mặt mừng. Những “cặp xung đột” cùng ở một nhà, cùng ăn một bàn, nói cười rôm rả. Các nhà văn từ miền Nam và miền Trung ra khá đông (dù vé máy bay không mềm mấy): Anh Đức, Lê Văn Thảo, Chim Trắng, Mai Quốc Liên, Trần Thanh Đạm, Phạm Quốc Ca, Phạm Quang Trung, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Mạnh Hảo, Tô Nhuận Vỹ, Lâm Thị Mỹ Dạ, Thanh Thảo... Viện Văn học có cả chục người từ tân viện trưởng đến nguyên viện trưởng. Tạp chí Văn nghệ Quân đội có đến 6 người. Nhiều nhà văn ở Hà Nội và các tỉnh lân cận cũng đều có mặt. Nhà thơ kiêm “nhà hùng hồn” Trần Mạnh Hảo vừa xuống xe của ... báo Nhân dân, lập tức mở vali phát ngay hàng trăm tờ phôtô cỡ A4 và A3 những bài viết phê bình, và đơn kiện giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh và báo Ngày nay (in bài phỏng vấn N.Đ.M chỉ trích T.M.H), nhưng nơi gửi không phải là công an, viện kiểm soát hoặc toà án mà là Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (!). Ngày hôm sau một vị khách không mời là Nguyễn Hoàng Đức từ Hà Nội lên cũng ôm một tập phôtô bài “bàn tròn” về triết luận nghệ thuật kiểu “hạ mục vô nhân” phân phát ở hành lang Hội nghị, rồi biến mất tăm. Nhà thơ Thanh Thảo sau khi nạp tham luận cho BTC liền đòi 200.000đ tiền “bồi đưỡng” và liền được chấp nhận. Cứ tưởng đấy là chiêu độc nhất vô nhị, hoá ra hơn 60 tham luận đều được bồi dưỡng với số tiền đó, dù được đọc hay không được đọc trong hội nghị.

Buổi khai mạc sáng 14.8, xuất hiện trên hàng ghế Đoàn Chủ tịch có Hữu Thỉnh, Hà Minh Đức, Trần Thanh Đạm, Anh Đức và Lê Quang Trang. Bàn thư ký có Lê Thành Nghị và Phạm Quang Trung (hai người này được gọi là “thư ký chuyên nghiệp” vì thấy trong Đại hội Nhà văn cũng giữ vị trí này). Bài đề dẫn của Tổng Thư ký Hội Nhà văn Hữu Thỉnh đọc rất hùng hồn nhận định LL-PB đã góp phần quan trọng trong tiến trình văn học nước nhà, đặc biệt là làm nổi bật tình hình văn học trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, nhưng vẫn còn những hạn chế chưa theo kịp bước đi của sáng tác vô cùng phong phú và sinh động. Ông cũng nhấn mạnh rằng, đây là cuộc gặp gỡ, trao đổi, tranh luận trên tinh thần dân chủ. Dù dàn máy âm thanh khá tốt, nhưng ông đọc đúng vào giờ mưa to nên ít ai nghe rõ. Suốt cả ngày 14, hơn 20 tham luận đã được trình bày tại hội nghị, đó là tham luận của Trần Thanh Đạm, Nguyễn Huy Bắc, Trần Đình Sử, Xuân Cang, Lê Quang Trang, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Trọng Tạo, Chu Xuân Sơn, Thanh Thảo, Lâm Tiến, Hồ Sĩ Vịnh, Trường Lưu, Nguyễn Văn Dân, Vũ Quần Phương, Phạm Tiến Duật, Anh Thơ, Hoàng Trinh v.v... Có nhiều ý kiến cho rằng, lý luận phê bình sau 1975 đã chấp nhận nhiều trường phái hiện đại thế giới từng vắng bóng tại Việt Nam, kể cả chủ nghĩa hiện thực không bờ bến mà trước đây đã bị phủ nhận; không khí cởi mở, khoan dung và đối thoại dân chủ được mở rộng (Trần Đình Sử). Nhà văn Xuân Cang lại đưa ra một nhận xét lạ: Không phải người đọc quay lưng với sách mà sách đang quay lưng với người đọc! Ông cũng cho rằng, các nhà phê bình không nên lấy tiêu chí là dạy dỗ người đọc mà nên đi cùng người đọc, vì người đọc hôm nay là Thượng đế. Nhà LL-PB Nguyễn Văn Hạnh băn khoăn: “LL-PB văn học cần đối thoại, tranh luận mới phát triển được. Tiếc thay ta vẫn chưa có được một không khí đối thoại, tranh luận bình thường, lành mạnh”. Một số ý kiến phê phán lối phê bình bốc thơm, bốc thối, câu khách làm người đọc mất tin vào phê bình. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng, phê bình gần đây mang ý nghĩa thứ tư của chữ PHÊ là “dùng tay đánh vào mặt người khác”. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo chỉ trích cuốn Về một hiện tượng phê bình của nhiều tác giả dày gần 600 trang đã “đánh” anh là vô văn hoá. Nhà phê bình Chu Xuân Sơn bắt bệnh “phê bình suy lương tâm” quen thói bé xé ra to, lập hiện trường giả, đánh tráo khái niệm, xiên xẹo la lối, qui chụp chính trị, gây nhiễu và tạo ra những giá trị rởm. Vấn đề phê bình chuyên nghiệp và nghiệp dư cũng được tranh luận và dễ thống nhất ở chỗ phê bình phải đạt tới tính khoa học của một chuyên ngành. Nói như nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo là, thời nào cũng cần tính chuyên nghiệp cao huống hồ là thời đại khoa học phát triển như ngày nay; anh Trần Mạnh Hảo (T.M.H) có hơi dỗi khi một số người bàn về tính chuyên nghiệp trong phê bình. Nhưng tính chuyên nghiệp – chuyên ngành là có thật. Dẫu có đá bóng suốt đời trên bãi sông Hồng vẫn không phải là cầu thủ chuyên nghiệp. Nhưng một số người cũng băn khoăn về tính thiếu hấp dẫn và thiếu thuyết phục của lối phê bình hàn lâm.

Vấn đề phê bình sách giáo khoa văn học là một điểm nóng. Không ai khẳng định là sách giáo khoa không có sai sót, nhưng sự phê bình sách giáo khoa văn học đôi lúc quá thái và dẫn đến sự xúc phạm cá nhân không đáng có. Thư ký văn học của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng xuất hiện trong hội nghị này với một tham luận “rất là nhà giáo”, cho rằng: Ngòi bút dạy người nhưng ngòi bút cũng có thể giết người. Ông hy vọng các nhà văn, nhà LL-PB sẽ tận tâm, tận tình với giáo dục hơn nữa.

Hội nghị dành trọn buổi sáng 15 cho các đại biểu phát biểu tự do. Người mở màn là giáo sư Hoàng Ngọc Hiến. Ông nói điều chưa ai nói, đó là “tư cách người bị phê bình”. Ông chia sẻ với thái độ điềm đạm và quyết liệt của đạo diễn Đặng Nhật Minh sau khi bị “đánh”oan về phim Thương nhớ đồng quê bởi ông cũng là người bị đánh nhiều lần từ trong nước và cả ngoài nước. Ông cũng chia sẻ với giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh khi có người cho là “tiểu khí”. Ông dẫn lời Biêlinxki nói rằng người vĩ đại cũng có lúc tiểu nhân, đê tiện, nhưng cái lớn là họ nhận ra điều đó; nhưng ông sợ nhất là kẻ tiểu nhân, trâng tráo, đê tiện mà suốt cả đời không biết mình là tiểu nhân, trâng tráo, đê tiện. Ý kiến của Hoàng Ngọc Hiến rất ngắn nhưng được hội nghị vỗ tay tán thưởng đến hai lần. Nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn nói về sự quan ngại cho lối phê bình ít học, ít đọc, nhưng vì anh dẫn chứng kể lể quá dài dòng làm nhiều người thất vọng hơn là trước khi anh xuất hiện. Nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn cho rằng phê bình ta thiếu giọng điệu, nói như viết, viết như nói; nhưng khi anh đưa thông tin “17% nội dung 83% cơ thể” thiếu thuyết phục thì bị hội nghị cười ồ. Nhà LL-PB Phạm Xuân Nguyên lo sợ lối phê bình thiếu học thuật, cảm tính hoặc lý luận vô lý luận, lại thiên về góc nhìn chính trị, đạo đức, qui chụp. Anh nói rằng: Năm nay tôi 20 tuổi Đảng, và tôi lo sợ LL-PB đang là một sân chơi thiếu luật, và không công bằng. Tại sao anh T.M.H được nói đi mà cuốn sách Về một hiện tượng phê bình nói lại, lại không được phát hành? Chúng ta luôn hô hào viết, hô hào đổi mới, nhưng sẽ đăng ở đâu?” Nhà văn Văn Chinh nói khá dài, nhưng thiếu mạch lạc nên không ai hiểu anh định nói gì; đến lúc quá giờ qui định, Chủ tịch đoàn rung chuông anh vẫn tuyên bố là “tôi còn một ý nữa”. Nhà LL-PB Nguyễn Hoà tự nhận là thuộc phái phê bình đao búa, chỉ trích lối viết phê bình quá cũ của một số “cây đa cây đề”. Và làm “đứng tim” cử tọa khi anh nói rằng: “Nếu một ngày báo còn in những bài LL-PB của Trần Thanh Đạm, Hồ Sĩ Vịnh, Trường Lưu, cha con tiến sĩ Đỗ Văn Khang thì không có phê bình. Nếu một ngày nhà văn Trịnh Đình Khôi còn làm nhà LL-PB thì tôi rất lo ngại cho văn học chúng ta. Nhà LL-PB Phan Trọng Thưởng (Viện trưởng Viện văn học) từ tốn nói “Anh T.M.H đã nhầm Viện Văn học với Hội Nhà văn, bởi Viện chuyên nghiên cứu có tính hàn lâm chứ không phải là một bộ phận của Hội Nhà văn; anh Vũ Quần Phương khen một người không có bằng tiến sĩ lại viết phê bình nhiều hơn những người có bằng cấp cao ở Viện, chỉ làm vừa lòng một người mà làm mếch lòng nhiều người; thực ra Viện có nhiều nhà nghiên cứu có học hàm, học vị mà chính họ cũng có nhiều công trình có giá trị. Viện cũng chưa bao giờ chủ trương phê bình chạy theo khoa học thuần tuý như có người đã hồ đồ nhận xét”. Nhà văn Bùi Đình Thi to khoẻ đứng trước micro bị cánh truyền hình chiếu đèn quay phim không chịu nổi đã “quát” truyền hình “Không được chiếu đèn khi tôi đang nói” làm hội nghị cười ồ. Ông phê phán việc “ém nhẹm” một số cuốn sách văn học xuất bản gần đây. Cuốn Thượng đế thì cười đã in trọn trên mấy số tạp chí Nhà văn rồi, mà NXB Hội Nhà văn in thành sách lại bị xếp kho, để giám đốc NXB thuỗn mặt vì số tiền in sách không “quay” được. Ông khẳng định nghệ thuật không vi phạm luật cấm thì cứ để phát hành cho nhân dân và thời gian thẩm định. Cách nói bỗ bã của Bùi Đình Thi làm cho hội nghị nóng lên. Sau tiếng vỗ tay dài, ông trở về ghế ngồi lại có vẻ thiếu tự tin, hỏi to: “Nói có được không?” và nghe có tiếng “Được rồi” lẫn tiếng cười vui vẻ... Việc nói lên sự thật ở hội nghị, có người cho rằng “sự thật mất lòng”, có người lại bảo là “thuốc đắng giã tật”. Nhưng điều đó đã chứng tỏ tính dân chủ của hội nghị này.

Tổng kết Hội nghị, nhà thơ Hữu Thỉnh kết luận: “Khiêm tốn mà nói, là Hội nghị đã thành công bước đầu”. Điều đó có nghĩa là nhiều vấn đề học thuật, đi vào chiều sâu của LL-PBVH ta còn phải tiếp tục. Việc ra một tờ báo dành riêng cho LL-PB là một bức xúc của cả giới LL-PB. Nếu có “sân chơi riêng”, chắc LL-PB sẽ rôm rả hơn, chuyên sâu hơn, và mới mẻ hơn.

Hà Nội, 8-2003
B.C
(176/10-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.